Views: 32
(Chúa Nhật III Phục Sinh năm A 2020)
Trong những ngày sau lễ Phục Sinh nầy, dân Kitô giáo gần như được khơi dậy một đức tin mãnh liệt vào một “Người Bạn đồng hành” có một không hai, một “Đấng Phục Sinh” đang có mặt, đang bước đi với mỗi người trên cuộc lữ hành tiến về quê hương vĩnh cửu.
Thật vậy, sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật III Phục sinh hôm nay dẫn dắt chúng ta vào mối tương quan liên vị của người Kitô hữu với chính Đấng Phục sinh, giữa cuộc sống đời thường với mầu nhiệm tuyên xưng ; đó cũng chính là cách thể hiện, sống, tuyên xưng, rao giảng của thế hệ các Tông Đồ, các cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy, mà các trích đoạn Lời Chúa vừa được công bố là những bằng chứng sống động.
Trước hết, trích đoạn sách Công Vụ Tông Đồ, qua bài giảng “xuất thần” của Thánh Phêrô, đại diện cho cả “nhóm 11 Tông Đồ” liền sau biến cố “Chúa Thánh Thần hiện xuống” vào dịp lễ Ngũ Tuần, đã vận dụng Lời Chúa phán dạy từ trong Cựu Ước để thuyên giải và làm chứng về sự kiện “Chúa Giêsu Nadarét đã sống lại sau cuộc khổ nạn vừa xảy ra tại Giêrusalem”. Với kiểu lập luận và trình bày dứt dạc, rõ ràng của dân chài lưới, quả thật, bài giảng về Phục Sinh của Thánh Phêrô, có thể nói được là “trên cả tuyệt vời”. Thánh Phêrô đã khôn khéo làm sống lại nhân vật Giêsu Nadaret “bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu…” đã bị chính những người mà thánh Phêrô thân mật gọi là “anh em” trao nộp và dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Tiếp theo, vị “dân chài chân quê chất phác nầy, đã minh giải và làm chứng về sự phục sinh của Đức Kitô qua những lời tiên báo trong Cựu ước, những tâm nguyện mạc khải của thánh vương Đa-vít mà những tín hữu Do Thái đã thuộc nằm lòng: “vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Đấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát”.
Điều gì đã xảy ra sau bài giảng xuất thần của Tông đồ trưởng Phêrô ? Thưa có khoảng ba ngàn người đã đón nhận “lời” và đã chịu phép rửa. Kể từ đây, chắc chắn những “Tân Tòng” nầy đã có thêm “một người bạn đồng hành” mới trong cuộc lữ hành đức tin của họ, một người mà nhờ sự tác động của Lời Chúa và qua các chứng nhân sống, đã xoay chuyển niềm tin của họ về một hướng mới, hướng của niềm hy vọng phục sinh, của ơn cứu độ và tha thứ.
Sau nầy, sau khi các cộng đoàn Kitô hữu đã được hình thành khắp nơi, chính Thánh Phêrô cũng đã tiếp tục ân cần giáo huấn anh chị em tín hữu về chân lý nền tảng nầy: “Ơn Cứu độ trong Đức Kitô tử nạn phục sinh”, như chúng ta nghe qua thư thứ nhất của ngài được tường thuật trong Bài đọc 2: “Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Đức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em.”
Thế nhưng, không phải lúc nào người Kitô hữu cũng giữ được niềm xác tín về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, về sự đồng hành của Đấng Phục Sinh bên cạnh mình trong cuộc lữ hành trên dương thế.
Thật vậy, người ta thường định nghĩa cuộc đời hay cuộc sống là “một cuộc lữ hành”; và cuộc lữ hành đó sẽ tốt đẹp hơn bao lâu còn có một ai đó bước đi bên cạnh; khi mất bạn đồng hành, cuộc lữ hành trở nên bi đát.[1]
Tác giả Vương Kiều đã trải lòng về nỗi bi đát đó qua bài thơ “Người lữ hành cô độc”: Xin trích đôi câu:
Về nơi bầu trời mây đen tối mịt,
tôi một mình tôi,
tiễn bước chân tôi.
Về nơi chiếc lá mùa thu run rẩy lìa cành,
về nơi ngôi sao đang rơi. . .
Ở cuối trời xa cô độc….
Tôi đi tìm ai ?
mà lòng đau Thánh Giá,
đè nặng lên vai,
Người Lữ Hành Cô Độc.
Tin Mừng Luca hôm nay kể cho chúng ta câu chuyện về những bước chân mệt mỏi, nản lòng của hai người lữ hành Emmau, sau biến cố “Ngày Thứ Sáu khổ nạn” và những chuyện tiếp sau đó !
Trên mọi nẻo đường trần thế hôm qua, hôm nay và mãi mãi sau nầy, chắc chắn không bao giờ vắng bóng những “lữ hành Emmau” cô độc, chán chường, hụt hẫng, hoang mang…về bao nhiêu chuyện trái ngang của cuộc đời tại thế. Là những người Kitô hữu, chúng ta thật hạnh phúc vì chúng ta xác tín rằng, chúng ta luôn có người “bạn đồng hành vô hình”, là chính Đức Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trên mọi nẻo đường chúng ta đi, trong mọi biến cố của đời thường cuộc sống.
Thật vậy, không chỉ hôm xưa Đức Kitô phục sinh đã đến, đã đồng hành, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho hai môn đệ Emmau…, mà suốt 2000 năm Ngài đã đồng hành xuyên suốt như thế cho bao nhiêu thế hệ con người… (Câu chuyện đại đế Napoléon đi bộ trong tang lễ của người mẹ một người lính).
“Ngày xưa con đã đi bên cạnh ta trên con đường chiến đấu, thì bây giờ ta sẽ đi bên cạnh ngươi trên con đường đau khổ…”.
Và như thế, chúng ta cần nhớ lại lời gọi mời của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II: “Anh chị em đừng sợ ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô ! …Đừng sợ ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người” ! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Vâng, một khi có Đức Kitô trong cuộc đời, thì “phép lạ” sẽ xảy ra: phép lạ của sự biến đổi, thăng tiến, canh tân và củng cố, như “phép lạ” đã xảy ra với 2 môn đệ trên con đường về Emmau: phép lạ biến hình khi “Bẻ Bánh”, phép lạ biến họ thành những con người mới mạnh mẽ, xông pha lên đường ngay trong đêm tối để loan báo Tin Mừng Chúa sống lại…
Như vậy, điều cuối cùng để chúng ta thể hiện và sống đức tin khởi đi từ những gợi ý của sứ điệp phụng Vụ hôm nay, đó chính là biết thường xuyên chọn lựa ba phương thế mà Đấng Phục Sinh đã sử dụng trong cuộc “đồng hành” của Ngài với chúng ta trên trần thế:
– Lời Chúa: “Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người”. Chúng ta hãy thường xuyên tìm đọc và lắng nghe để Lời Chúa dẫn lối đưa đường chúng ta đến cuộc hội ngộ thường xuyên và đích thực với Chúa Kitô.
– Thánh Thể: “Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông”. Chúng ta hãy năng tham dự bàn Tiệc Thánh Thể để từ “địa chỉ cao cả và nhiệm mầu, huynh đệ và hiệp nhất” nầy, niềm tin vào Đấng Phục Sinh của chúng ta càng thêm củng cố và phát triển.
– Cộng đoàn Hội Thánh: “Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Chúng ta hãy hăng hái tham gia vào đời sống cộng đoàn để chính nhờ môi trường thánh thiện và mối giây hiệp nhất yêu thương nầy, chúng ta được thăng tiến, đỡ nâng và dồi dào sức mạnh để ra đi làm chứng cho Tin Mừng Cứu Độ.
Trong một thế giới có quá nhiều những “thần tượng giả”, những “bạn đồng hành không ra gì”, những ý thức hệ lầm lạc và giả dối…chúng ta cần luôn tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng như hai môn đệ Emmau khi xưa, với người “bạn đồng hành duy nhất đáng tin”- Đức Kitô phục sinh: “Xin Thầy ở lại với chúng tôi vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”; và cùng cầu xin cho cho mọi người trên thế giới, nhất là những kẻ đang bước đi trong buồn phiền cô độc, được tìm thấy “Người bạn đồng hành đích thực là chính Đức Kitô Phục Sinh”, để cuộc sống của họ không là một “cuộc lữ hành cô độc” mà là một cuộc tiến bước trong hoan vui và đầy hy vọng. Amen.
Giuse Trương Đình Hiền
[1] Lời của nhân vật Mary Alice trong bộ phim Desperate housewives: La vie est un voyage qui est bien préférable de faire avec un compagnon à ses côtés. Mais parfois, on perd son compagnon sur le chemin. Et le voyage devient insupportable.