Views: 10
(Một thoáng về Công giáo tại Quảng Ngãi)
Dẫn nhập: Tháng Sáu và hoa phượng
Trước khi mang dáng đứng của lần tôn tạo cuối cùng như hiện nay (năm 2025), khuôn viên nhà thờ mới Quảng Ngãi đã từng có hai hàng cây phượng vĩ cao to rợp bóng; và mỗi độ mùa hạ trở về hay Tháng Thánh Tâm trở lại (Tháng 6), những cánh hoa phượng trải thảm đỏ rực trên những lối đi vào cửa thánh đường.
Nhắc đến “mùa hạ và phượng vĩ” chắc không ít thế hệ học sinh Việt Nam nhớ những lời thơ tình học trò rất dung dị và cũng lắm lãng mạn của bài thơ “Chút tình đầu”, một thi phẩm để đời của thi sĩ Đỗ Trung Quân và được nhạc sĩ Vũ Hoàng dệt nhạc với tựa đề “Phượng hồng” để lời thơ sống mãi theo cùng năm tháng:
“Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng,
Em chở mùa hè của tôi đi đâu…
Cánh phượng hồng ngẩn ngơ,
Mùa hè đến trường khắc nỗi nhớ trên cây…”
Nhưng câu chuyện muốn sẻ chia hôm nay sẽ không dừng lại ở những lời thơ lãng mạn “Phượng hồng” của tình yêu học trò mà là một “phượng hồng” của đức tin, hay “Mùa Hoa Phượng của của Tháng Thánh Tâm”, một dấu chỉ “Phượng hồng” của “máu và nước tuôn ra từ trái tim bị đâm thâu” (Ga 19,34) biểu tượng sâu thẳm và rõ nét của một “tình yêu vĩ đại” nơi Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận “yêu đến cùng”, “yêu tới bến”: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13)!
Vâng! Tháng 6 với những cánh hoa phượng đỏ rực; và tháng 6, “Tháng Thánh Tâm”, tháng mà mọi người Công giáo khắp năm châu, được gọi mời “nhìn lên Đấng bị đâm thâu” (Ga 19,37) để chiêm ngưỡng, cảm nhận, tin yêu, kính thờ… theo những “gợi hứng xuất thần” hay thị kiến đặc biệt của thánh nữ Magarita[1]: Trái tim rạng ngời mang vết sẹo của Đấng đã “yêu bằng một tình yêu trọn hảo cho không” khi chấp nhận “bị treo lên để kéo muôn người lên với Ngài” (Ga 12,32) hay “bị đâm thâu” để tuôn tràn dòng thánh ân cứu độ: “Vì tình thương lạ lùng khi chịu treo trên thập giá, Người đã tự hiến thân vì chúng con. Từ cạnh sườn bị đâm thủng, Người đã để máu và nước chảy ra hầu khơi nguồn các bí tích của Hội Thánh” (Kinh Tiền Tụng lễ Thánh Tâm).
Tháng 6 năm nay, trong dịp đại lễ Thánh Tâm, trên chặng đường hành hương của Năm Thánh Hy vọng 2025, nhà thờ chính Quảng Ngãi (Nhà thờ mới 108 Hùng Vương) được Giáo phận Qui Nhơn chọn làm nơi “Trạm Dừng chân” của cuộc hành hương Năm Thánh mà ngôn ngữ đặc trưng của phụng vụ gọi là “Thánh lễ Trạm”.
Trong khung cảnh mục vụ đặc biệt này, thiết tưởng, chúng ta cũng cần đọc lại vài dấu mốc trong cuộc hành trình đức tin của người tín hữu Công giáo xứ Quảng; không phải một đức tin đã trở thành cũ kĩ phai tàn như “là bài thơ còn hoài trong vở, Giữa giờ chơi mang đến lại mang về…” nơi “Chút tình đầu” (Phượng Hồng) của Đỗ Trung Quân, mà là một đức tin là “viên ngọc quý được liên tục kiếm tìm” (Mt 13,45-46), trân trọng, gìn giữ của bao thế hệ!
I. MỘT THOÁNG QUẢNG NGÃI
1. Quảng Ngãi: vùng đất hòa trộn vị “đắng” và “ngọt”:
Không biết tự lúc nào người ta vẫn đã nói rằng xứ Quảng[2] là “xứ dân gầy”. Phải chăng vì dân của miền đất “Ấn Trà”[3] mang dư âm của “vị đắng muôn thuở”; đó là vị đắng của vất vả đói nghèo do đất xấu, dân đông nên vẫn được diễn tả qua hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”. Hơn nữa, vùng này cũng là quê hương của thiên tai địch họa hay chiến tranh tàn khốc mà có lẽ người ta chưa quên những mô tả đầy chất thương khó rợn rùng qua ngòi bút của nhà thơ Thanh Thảo[4] nơi bài thơ “Trẻ con Sơn Mỹ”[5]:
Những thân hình như trái cây bị háp
Phơi ra từng dẻ xương sườn
Đàn ruồi bay đen đúa mâm cơm
Mỗi củ khoai cõng vài ba hạt gạo…
Tiếng chim đỏ rạng đông xoè nan quạt
Ôi lá xanh lá non bàn tay chấp chới
Mặt đất đầy gương mặt trẻ con
Lời mẹ nựng chưa tan trên đầu lưỡi…
Thế nhưng, đây cũng là vùng đất nổi tiếng với “vị ngọt” có một không hai của “mạch nha”, một đặc sản được tinh chế bằng mầm của hạt gạo; và “vị ngọt rất riêng” của “đường phèn, đường phổi, kẹo gương”, những sản phẩm của mía đường nhưng được tinh chế cách tế vi và khoa học mà chẳng một nơi nào trên thế giới làm được! Nơi đây cũng còn những đặc sản khác như “cá bống” và “don” sông Trà mà cái chất “mằn mặn” và “cay cay” đã khiến bao người dân Quảng Ngãi, cho dù đi khắp bốn phương trời nhưng vẫn mang nỗi nhớ khôn nguôi; để một ngày, được trở về, ngôi bên vĩa hè đường phố Quang Trung thưởng thức tô don nóng hổi với bánh tráng ớt xiêm, hay “xếp bằng” tụ tập dưới mái tranh quê ăn cơm trắng với cá bống kho tiêu mặn mà dân dã…
2. Quảng Ngãi: vùng đất mang dấu ấn lịch sử nam tiến:
Theo Phan Khoang, tác giả của tác phẩm Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, thì địa phương Quảng Ngãi chính thức lần đầu tiên được Đại Việt sáp nhập từ Champa năm 1402 thời Hồ Hán Thương (triều đại nhà Hồ). Lúc bấy giờ, vùng đất này còn mang tên Cổ Lũy và nhà Hồ đã đưa dân Nghệ An, Thuận Hóa vào khai khẩn đất đai[6].
Thế nhưng, biên giới Đại Việt và Champa suốt 3 thế kỷ, từ 15-17, chưa thật sự được phân định dứt khoát, cho dù kể từ năm 1471, sau chiến dịch Đồ bàn của vua Lê Thánh Tôn (triều đại Lê sơ), vùng Quảng Ngãi chính là phủ Tư Nghĩa, một trong ba phủ (Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhơn) trực thuộc đơn vị hành chánh do vua Lê Thánh Tôn thiết lập mang tên “Thừa Tuyên Quảng Nam”[7].
Riêng danh xưng “Quảng Ngãi” lại đã trải qua nhiều lần thay đổi: Năm 1471 (thời Lê sơ): phủ Tư Nghĩa. Năm 1602 (thời vua Lê chúa Trịnh-Nguyễn): phủ Quảng Nghĩa bao gồm 3 huyện: Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa. Năm 1776 (Thời Tây Sơn): phủ Hòa Nghĩa. Năm 1802 (Thời Gia Long): dinh Quảng Nghĩa. Năm 1808 (Thời Gia Long): trấn Quảng Nghĩa. Năm 1832, trong công cuộc cải cách hành chính thời Minh Mạng: tỉnh Quảng Nghĩa. Thời Pháp thuộc: tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1945 (Thời cách mạng tháng 8): tỉnh Lê Trung Đình. Từ năm 1955 (Thời Đệ nhất Cộng hòa cai trị Miền Nam Việt Nam): tỉnh Quảng Ngãi. Từ năm 1975 đến nay: tỉnh Quảng Ngãi. Riêng từ tháng 7.2025, tỉnh Quảng Ngãi sẽ bao gồm hai tỉnh sáp nhập là Kon Tum và Quảng Ngãi.
3. Quảng Ngãi và hiện tình:
3.1. Vị trí địa lý (trước tháng 7/2025)[8]:
Tỉnh Quảng Ngãi phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía Nam giáp tỉnh Bình Định; phía Tây giáp tỉnh Kon Tum; phía Đông giáp Biển Đông: Quảng Ngãi có đường bờ biển dài khoảng 130km, giáp Biển Đông, với nhiều bãi biển đẹp và hệ thống đảo, đặc biệt là huyện đảo Lý Sơn.
Quảng Ngãi cách thành phố Đà Nẵng 146km, cách thủ đô Hà Nội 908km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 820km về phía Nam (tính theo đường Quốc lộ 1A). Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, khu vực Dung Quất của tỉnh Quảng Ngãi được Chính phủ chọn để xây dựng Nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam: nhà máy lọc dầu Dung Quốc.
3.2. Địa bàn hành chánh (trước tháng 7/2025)[9]:
– Diện tích Quảng Ngãi là 5.155km2, theo số liệu chính thức của Cục Thống kê, rộng thứ 27 trong số 63 tỉnh, thành của Việt Nam. Dân số của tỉnh Quảng Ngãi là 1.256.952 người, tính đến ngày 1/4/2024 theo kết quả điều tra dân số giữa kỳ năm 2024, đứng thứ 33 cả nước.
– Tỉnh Quảng Ngãi có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 11 huyện (Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Ba Tơ, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Lý Sơn), thị xã Đức Phổ và thành phố Quảng Ngãi với 173 đơn vị hành chính cấp xã.
– Nghị quyết số 60-NQ/TW, ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã quyết định hợp nhất tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi, lấy tên là tỉnh Quảng Ngãi, trung tâm chính trị-hành chính đặt tại tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
3.3. Tổng quan văn hóa, con người:
– Quảng Ngãi là vùng đất, mà theo nhà khảo cổ người Pháp – M. Vinet phát hiện từ năm 1909, đã phát sinh một trong ba nền văn hóa quan trọng nhất của Việt Nam nói riêng và Á Châu nói chung: đó là Văn hóa Sa Huỳnh, tồn tại từ 1000 năm trước Công nguyên cho đến khoảng thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Văn hóa Sa Huỳnh cùng với hai nền văn hóa Đông Sơn và Đồng Nai đã làm nên “Tam giác văn hóa của Việt Nam” mà nét đặc trưng đó là “nền văn minh lúa nước” với những dụng cụ tinh xảo đáp ứng cuộc sống còn lưu lại[10].
– Cùng với nền văn hóa Sa Huỳnh mang tính “Quốc tế”, Quảng Ngãi còn lưu lại những di tích của nền văn hóa Champa (thành cổ Châu Sa ở Sơn Tịnh) hay những tên gọi Champa của những con sông và địa danh như Trà Bồng, Trà Khúc, Trà Sơn, Trà Câu[11]…
– Về ngôn ngữ, tùy theo cách phân chia của các nhà nghiên cứu, tuy nhiên, dù theo cách phân chia nào, phương ngữ Quảng Ngãi luôn gắn liền với Quảng Nam khi đứng chung trong “vùng Nam” đối lại “vùng Bắc (M. Gordian, Hoàng Phê…); hoặc thuộc “vùng Trung Nam: từ Quảng Nam tới Phú Khánh (Nguyễn Kim Thản); hoặc thuộc phương ngữ Nam Trung Bộ: từ Quảng Nam đến Bình Thuận (Nguyễn Văn Ái); hoặc thuộc “phương ngữ Trung giữa”: từ thừa Thiên đến Quảng Ngãi (Nguyễn Bạt Tụy)[12]… Chất giọng Quảng vừa chân quê mộc mạc có khi hơi cộc cằn thô thiển…, nhưng chỉ những ai đã từng được nuôi dưỡng từ bầu sữa của những người mẹ Quảng Ngãi, được lớn lên theo những lời ru giọng Quảng… mới cảm nghiệm hết nét tinh tế thân thương của giọng nói miền núi Ấn sông Trà…
– Về con người: theo nhận xét chung, người Quảng Ngãi giỏi chịu đựng gian khổ và can đảm trong đấu tranh. Khi đối diện với đất đai khô cằn lại thêm thường xuyên gánh chịu thiên tai địch họa, chiến tranh loạn lạc… nên người Quảng Ngãi có óc sáng tạo, tháo vát nhưng cũng khá cực đoan, cục bộ. Cũng làm “xe nước tự động” để mang nước cho cánh đồng, nhưng chỉ có tại Quảng Ngãi mới có những “guồng xe nước” vĩ đại, với cả 5, 10 bánh xe kết lại, dựng dọc theo bờ sông Trà khúc; cũng vậy, nhiều nơi dùng xe đạp để chở đồ, nhưng chỉ có dân Quảng Ngãi mới nghĩ ra cách làm “xe đạp thồ” với hai thanh cây gắn vào để chở được gấp 5 gấp 10 lần chiếc xe đạp bình thường[13].
– Xuất phát từ bối cảnh địa lý, văn hóa và môi trường xã hội, nhân sinh như thế, nên vùng đất Quảng Ngãi đã sản sinh cho đất nước, cho quê hương những nhân vật kiệt xuất, từ võ tướng đến văn nhân, từ những nhà chính trị kiến quốc lừng danh đến những thi nhân, văn nhân với những tác phẩm để đời. Có thể điểm danh một số nhân vật lịch sử xuất chúng của Quảng Ngãi:
– Lê Văn Duyệt (1763-1832): Vị tướng tài ba giúp nhà Nguyễn chiến thắng Tây Sơn và thống nhất đất nước.
– Trương Đăng Quế (1793-1865); quan đại thần trải qua 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, vừa là nhà chính trị kiến quốc vừa là nhà văn hóa lớn với tác phẩm “Học văn Dư tập”.
– Trương Công Định (1820-1864): Lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp.
– Bích Khê (1916-1946): thi sĩ tiền chiến (tên thật là Lê Quang Lương) với thi phẩm ‘Tình huyết” (xuất bản năm 1939) cùng với một số thi phẩm khác chưa được xuất bản.
– Nguyễn Vỹ (1912-1971): Nhà thơ, nhà văn …
– Tế Hanh (1921-2009): Trần Tế Hanh, nhà thơ nổi tiếng …
– Phạm Văn Đồng (1906-2000): Thủ tướng của hai chế độ (Việt nam Dân chủ Cộng hòa: 1955-1976 và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: 1976-1987).
– Đỗ Đức Cường (1945- ): Nếu Luther George Simjian là người đầu tiên thiết kế và hoàn thành máy rút tiền đầu tiên trên thế giới vào năm 1939 tại New York, John Shephrd-Barron là người cho ra đời máy rút tiền điện tử đầu tiên (Anh) vào năm 1967, thì ông Đỗ Đức Cường, người Đức Phổ, Quảng Ngãi, là người đã hoàn thiện cơ bản cấu trúc cốt lõi và mở rộng hệ thống ATM ra thị trường như hiện nay. Đó chính là một bước tiến lớn của nhân loại trong lĩnh vực ngân hàng…
I. CÔNG GIÁO QUẢNG NGÃI QUA DÒNG THỜI GIAN
1. Những bước chân khai phá đầu tiên;
Trong công cuộc loan báo Tin mừng tại Việt Nam thuở ban đầu, một cột mốc lịch sử chính thức và quan trọng đó là năm 1615, năm mà phái đoàn thừa sai đầu tiên là 3 tu sĩ Dòng Tên cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng): linh mục Francesco Buzomi (Ý), linh mục Diogo Carvalho (Bồ Đào Nha) và tu huynh António Dias (Bồ Đào Nha)[14]. Từ “trú sở” đầu tiên này, do sự quan phòng đặc biệt của Thiên Chúa, vào năm 1618, một số thừa sai (đã có mặt và được tăng cường sau đó) đã được quan khám lý Trần Đức Hòa ở Qui Nhơn đỡ đầu và tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập cư sở chính thức đầu tiên (Della Residentia) của Dòng Tên tại Đàng Trong năm 1618, cư sở Nước Mặn (Pulocampi) với bốn nhân vật sau: linh mục Buzomi, linh mục Pina, linh mục Borri, tu huynh Dias[15]. Từ cư sở chính thức này, các thừa sai đã thiết lập thêm hai cư sở nữa: Hội An Quảng Nam (1619) và Dinh Chiêm Quảng Nam (1625)[16] để phối trí công cuộc loan báo Tin mừng xuyên suốt từ Thuận Hóa, Quảng Nam (vùng truyền giáo phía Bắc do cư sơ Hội An đặc trách) đến Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Vùng truyền giáo phía nam do cư sở Nước Mặn đảm nhận)[17].
2. Công cuộc loan báo Tin mừng đầu tiên tại Quảng Ngãi:
Như chứng từ lịch sử ghi lại rõ ràng, vùng đất Quảng Ngãi đã được vinh dự đón nhận Tin mừng ngay từ thuở ban đầu thời các thừa sai Dòng Tên lập cư sở Nước Mặn ở Qui Nhơn từ năm 1618; và sau đó được tiếp nối bởi các thừa sai Hội truyền giáo hải ngoại Paris (MEP), kể từ khi hai Giáo phận Tông tòa Đàng Trong và Đàng Ngoài được chính thức thiết lập vào năm 1659[18].
Chúng ta thử dừng lại để tìm hiểu xem một số sự kiện quan trọng của hai thời kỳ quan trọng đó.
2.1. Quảng Ngãi thời “bảo trợ truyền giáo” (Dòng Tên):
Nếu Quảng Ngãi đón nhận Tin mừng kể từ sau năm 1618 khi trực thuộc “vùng truyền giáo phía Nam” do cư sở Nước Mặn đặc trách dưới quyền lãnh đạo của cha Buzomi, thì khoảng năm 1625, vùng đất này đã xuất hiện các giáo điểm: Chợ Mới (thuộc vùng Tây Sơn Tịnh ngày nay), Vom (thuộc vùng Mộ Đức ngày nay)[19]. Riêng cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), trong những chuyến đi truyền giáo tại Đàng Trong, ngài đã “kinh lý”, thăm viếng nhiều cộng đoàn Kitô hữu Chợ Mới, Bầu Gốc và Vom (Baobam), đã nhận được nhiều niềm yên ủi qua những gia đình và tín hữu đạo đức, nhiệt thành[20]. Từ đó, cộng đoàn tín hữu Quảng Ngãi phát triển mạnh mẽ cả số lượng và chất lượng, đến độ, có một thời, Quảng Ngãi được mệnh danh chính là “Trưởng Nữ” của Giáo đoàn Đàng Trong![21]
Qua chính lời kể của cha Đắc Lộ, giáo đoàn Quảng Ngãi đã có những tín hữu tốt lành, thánh thiện và nhận được đặc sủng “làm phép lạ chữa lành” như ông Matthêô, anh Anrê[22]. Chính giáo đoàn Quảng Ngãi đã cung cấp cho cha Đắc Lộ và các thừa sai Dòng Tên kế tục một số Thầy Giảng ưu tú như Gioan Thanh Minh, Giuse Trang, Luca Bền để sau này, một số người trong đó đã trở thành những linh mục tiên khởi xuất sắc phục vụ cánh đồng truyền giáo Đàng Trong, như Công Nghị Phố Hiến đã ghi lại:
“từ năm 1668-1670, Đức cha Lambert de La Motte đã phong chức linh mục cho 11 thầy giảng gồm 2 thầy thuộc Đàng Trong (Giuse Trang, Luca Bền) và 9 thầy thuộc Đàng Ngoài (Bentô Văn Thiện (Hiền), Giuong Văn Huệ (Học), Mattinho Mật, Antong Văn Học (Quế), Philiphe Văn Nhân (Nhiêu), Simong Kiên, Giacôbê Văn Kim, Bentô Văn Tuy (Vitô Tri), Leo Văn Trung (Trụ)”[23].
2.2. Quảng Ngãi thời “Đại diện Tông Tòa”:
2.2.1. Khúc quanh quan trọng:
Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, có thể nói, đã trải qua hai giai đoạn và cũng là “hai lựa chọn” hay “hai con đường” quan trọng chi phối công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo hội trong suốt gần ba thế kỷ. Hai lựa chọn đó là: “Chế độ Bảo trợ truyền giáo” (Patronatus)[24] và “Giáo phận Đại diện Tông tòa” (Vicario Apostolico).
Có thể nói được, công cuộc truyền giáo của các tu sĩ, đặc biệt Dòng Tên với cha Đắc Lộ, dưới chế độ “Bảo trợ truyền giáo”, dù có nhiều hạn chế và tiêu cực[25], đã mang lại không ít thành quả cho Giáo hội Việt Nam thuở ban đầu; đó là những viên đá nền tảng thiết dựng tòa nhà Giáo hội Công giáo Việt Nam để chuẩn bị cho một giai đoạn chính thức và hoàn thiện như nhận xét của linh mục tiến sĩ Giáo sử Antoine Bùi Kim Phong:
“Và trên hết, sự hiến mình toàn vẹn và không mệt mỏi của cha De Rhodes dành cho việc thiết lập các đại diện tông tòa cũng như hàng giáo sĩ bản xứ tại Việt Nam được đánh giá cao. Thật sự, cha De Rhodes là người đã mở một trang sử mới của Giáo hội tại Việt Nam, một kỷ nguyên mới của lịch sử truyền giáo tại Á châu và toàn thể Giáo hội. Thật đúng khi gọi ngài là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất trong mọi thời của Giáo hội hoàn vũ”[26].
Tóm lại, công cuộc loan báo Tin mừng tại Á châu vào thế kỷ 17, đặc biệt, tại Đàng Trong và Đàng Ngoài của Việt Nam, chỉ được thực hiện cách thống nhất và có đường lối rõ rệt dứt khoát kể từ sau sự kiện ngày “9.9.1659”, tức biến cố Tòa thánh thiết lập hai Giáo phận Tông tòa đầu tiên tại Việt Nam: Ngày 9.9.1659, với Sắc chỉ Super Cathedram, Đức Giáo hoàng Alexandro VII đã thiết lập hai Giáo phận Tông tòa Đàng Ngoài và Đàng Trong và giao cho hai Giám mục: Pierre Lambert de La Motte: Đại diện Tông tòa Đàng Trong (Vicario apostolico in regno Cocincinae) và François Pallu: Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài (Vicario apostolico in regno Tunchini)[27].
2.2.2. Dấu ấn “Công giáo Quảng Ngãi”:
Được soi sáng và hướng dẫn bởi “Huấn thị 1659”[28] của Thánh bộ Truyền bá Đức tin, tiếp theo, nhờ định hướng của công nghị Ajutthaya (1664)[29] mà kết quả chính là “Văn kiện Monita”[30], công cuộc truyền giáo tại Việt Nam có một hướng đi rõ rệt và chắc chắn. Riêng tại Quảng Ngãi, dấu ấn Công giáo của thời kỳ này đó chính là: các linh mục bản xứ tiên khởi và Dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong.
– Giuse Trang, linh mục Việt Nam tiên khởi:
Chính Đức cha Lambert de La Motte đã tiếp nhận, đào tạo bổ sung tại chủng viện Ajutthaya Thái Lan các thầy giảng đên từ Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài. Sau đó, chính ngài đã đặt tay phong chức cho họ mà một trong số đó được mang vinh dự là “linh mục tiên khởi của Giáo hội Công giáo Việt Nam: thầy Giuse Trang, một thầy giảng gốc Quảng Ngãi. Đây là nhận xét của chính Đức cha Lambert về cha Giuse Trang:
“Ngày cuối tháng 3, vọng lễ Phục sinh (1668), hai thầy chủng sinh ở tình trạng được phong chức đã được chịu chức linh mục “sub titulo missionum” (dưới danh hiệu thuộc miền truyền giáo). Một thầy tên Giuse, 28 hoặc 29 tuổi, thầy giảng người Đàng Trong, được cha Hainques gửi đến để được thụ phong. Còn thầy kia là Francois Perez, con trai của một người Bồ Đào Nha gốc Negapatan trên bờ biển Coromandel, 24 hoặc 25 tuổi. Hai thầy này được tiếng là đạo đức và sống siêu thoát. Cha Giuse đã được vinh dự chịu nhiều đòn roi trong các nhà tù Đàng Trong, vì người ta bắt gặp ngài giúp đỡ các tín hữu dũng cảm đang bị giam giữ trong các nơi đó…”[31].
Cũng cần lưu ý, 3 tháng sau lễ phong chức của cha Giuse Trang, vào ngày 8.6.1668, cũng tại Ajutthaya, Đức cha Lambert tiếp tục phong chức cho hai thầy giảng Đàng Ngoài là Gioan Văn Huệ và Bênêđictô Hiền[32]; và đầu năm sau đó (1669), thầy Luca Bền thuộc Đàng Trong lại được Đức cha Lambert phong chức tại thành phố Piply miền nam Thái Lan[33].
Như vậy, xét về thời điểm được truyền chức linh mục, vinh dự “linh mục Việt Nam tiên khởi” phải được dành riêng cho cha Giuse Trang, người con của quê hương núi Ấn sông Trà. Hơn nữa, theo nhận xét của chính Đức cha Lambert, cha Vachet và tường thuật của Địa phận truyền giáo, cha Giuse Trang là “người thợ đáng khâm phục”, là linh mục siêu thoát, cẩn trọng và khôn ngoan, nhiệt thành trong sứ vụ và rất được giáo dân thương mến… Trong cuộc kinh lý Đàng Trong lần thứ nhất (1671), Đức cha Lambert đã đặt cha Giuse Trang ở tại Nước Mặn để cai quản giáo đoàn Qui Nhơn (Tức địa bàn Giáo phận Qui Nhơn ngày nay). Rất tiếc, cha Giuse Trang tài cao mệnh yểu, ngài được Chúa gọi về (1676) khi mới 36 tuổi đời với 8 năm trong đời linh mục[34]. Một điều cần biết thêm, cha Giuse Trang cũng là bào huynh của chị Bề trên đầu tiên của Dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong được Đức cha Lambert thiết lập tại An Chỉ năm 1671[35]. Riêng về phương diện trí thức, chắc chắn cha Giuse Trang thông thạo tiếng Latinh, vì chính ngài được Đức cha Lambert chọn làm “thư ký tiếng Việt” trong Công nghị Hội An lần thứ I (để thông ngôn, chuyển ngữ các nội dung nghị trình bằng tiếng Latinh sang tiếng Việt)[36].
– Dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong:
Chúng ta biết rằng, trong cuộc kinh lý mục vụ tại Đàng Trong lần thứ nhất (31.8.1671), Đức cha Lambert chính thức thực thi quyền Chủ chăn trên chính Giáo phận Đại diện Tông tòa được giao cho mình. Chính trong lần “kinh lý mục vụ” đặc biệt này, vào ngày 19.01.1672, Đức cha Lambert đã mở Công nghị đầu tiên tại Đàng Trong (hay còn gọi là “Công nghị Hội An”) như là một “thiết chế mục vụ” căn bản để “chuẩn hóa” đường lối sống đạo và hoạt động tông đồ trên toàn Giáo phận Tông tòa Đàng Trong sau thời “Bảo trợ truyền giáo”. Tuy nhiên, trước khi tiến hành Công nghị này, có một sự kiện mục vụ mang tầm “chiến lược”, ảnh hưởng tích cực và lâu dài cho tới mãi hôm nay trên cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam, đó là việc thiết lập Dòng mến Thánh Giá Đàng Trong vào cuối năm 1671 tại An Chỉ, Quảng Ngãi.
Ngoài những yếu tố “thiên thời địa lợi” của vùng đất An Chỉ, nơi đang có một cộng đoàn đức tin nhiệt thành, phong phú[37], nhân tố “Giuse Trang” cũng mang tính quyết định trong việc thành lập dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong của Đức cha Lambert[38].
– Gioan Thanh Minh: Nhà văn hóa Hán Nôm:
Góp phần vào dòng chảy văn học chữ Nôm Công giáo mà những “cây đại thụ” như Majorica, Lữ Y Đoan đã khởi xướng và xây những viên gạch đầu tiên, Quảng Ngãi đã đóng góp một nhân vật tiêu biểu đó là Thầy Gioan Thanh Minh (1588-1663).
Là một trong bốn “chứng nhân tử đạo” của cuộc bách hại năm 1663, thầy Gioan Thanh Minh (còn được gọi là Jean Vuang hay Ke-Tlam), một thi sĩ, một người thông thạo Hán Nôm, từng dạy ngôn ngữ cho các linh mục thừa sai, soạn tác thơ văn giáo lý để dạy đạo, rất khiêm nhường đạo đức vâng phục bề trên và đã chết vì đạo cách oai hùng[39].
Dựa theo tác giả Manuel FERREIRA, sử gia Linh mục Đỗ Quang Chính cho biết: thầy Gioan có trú quán ở Ketlam, sinh quán tại làng Thanh Minh, quận Bình Sơn, Quảng Ngãi. Là con nhà giàu, học giỏi, có vợ Công giáo tên thánh Anna. Khi vợ chết xin gia nhập hội Thầy giảng khoảng năm 1643[40]. Chắc chắn, nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động của “một thuở ban đầu” tiếp nhận Tin mừng, cái thuở “ngỡ ngàng rung động” của một thời “Công vụ Tông Đồ”, cùng với những “gợi hứng” đầy hiện thực và hữu dụng của các thừa sai như Majorica, thầy Gioan Thanh Minh, với cái vốn Hán Nôm phong phú, đã soạn tác, mà theo lịch sử ghi lại, “15 tác phẩm bằng chữ Nôm, hầu hết là hạnh các thánh. Lời thơ của thầy chải chuốt, đầy lòng thành kính khiến dân thì ưa thích, các quan thì chịu ảnh hưởng nặng, chúa Nguyễn Phúc Lan thán phục. Giống như Majorica, Gioan Thanh Minh đáng được kể vào số những người tiên phong sử dụng truyện Nôm, tức văn xuôi Nôm”[41]. (x. Đỗ Quang Chính)[42].
3. Công giáo Quảng Ngãi hôm qua và hôm nay:
3.1. Thăng trầm và dâu bể:
Gần đập Thạch Nham, từ đầu phía bắc của “chiếc cầu chìm” bắt ngang sông Trà Khúc, nếu men theo đôi bờ tả và hữu ngạn của con sông “huyền thoại” nầy xuôi về hướng đông, những người Công giáo Quảng Ngãi không ai là không nhớ đến những danh xưng (mà một số trong đó hôm nay chỉ còn trong hoài niệm): Phước Thọ, Phước Lâm, Cù Và, Đồng Cọ, An Hội, Tân lộc, Bình Đông, Vạn Lộc, Thiên Lộc, Chợ Mới, Phú Hòa, Phú Long, Quảng Ngãi, Tịnh An, Thu Xà, Tịnh Ấn…
Thật vậy, trước giai đoạn chiến tranh khốc liệt diễn ra khoảng năm 1965, những địa danh trên chính là những cộng đoàn giáo xứ và giáo họ đông đúc trù phú của tỉnh Quảng Ngãi, nơi mà các thừa sai truyền giáo tại Đàng Trong đã từng gọi là “Trưởng Nữ”. Theo số thống kê mục vụ còn lưu lại, cho đến ngày 18.01.1963, tức ngày Tòa thánh tách một phần phía Bắc của Giáo phận Qui Nhơn thành lập Giáo phận Đà Nẵng, thì toàn Giáo phận Qui Nhơn lúc đó có 75 linh mục triều, 6 linh mục dòng, 45 tu sĩ nam, 211 nữ tu, 41 đại chủng sinh, 122 tiểu chủng sinh, 116.882 giáo dân[43].
Quảng Ngãi, vào thời gian trước biến cố 01.11.1963 (chế độ Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ), gồm có 11 giáo xứ (paroisse) cùng với 1 Trung tâm truyền giáo: Châu Ỗ do Dòng Chúa Cứu thế đảm trách và một “chuẩn giáo xứ” (giáo họ biệt lập): Thu Xà. Sau đây là tên của 11 giáo xứ thuộc Quảng Ngãi tính từ phía Nam ra Bắc: Trà Câu (Đức Phổ và Ba Tơ), Bầu Gốc (Mộ Đức), Phú Vang (Mộ Đức), Kỳ Tân (Tư Nghĩa), Châu Me (Nghĩa Hành và Minh Long), Quảng Ngãi (thị xã Quảng Ngãi và một số xã thuộc Tư Nghĩa), Phú Hòa (Sơn Tịnh), Bình Đông (Sơn Tịnh và Trà Bồng), Tân Lộc (Sơn Tịnh), Cù Và (Sơn Tịnh và Sơn Hà), Trung Tín (Bình Sơn và Trà Bồng).
Với 13 cộng đoàn(11 giáo xứ, 1 Trung tâm truyền giáo và 1 chuẩn giáo xứ), giáo dân Quảng Ngãi cho đến thời điểm năm 1963 có thể trên dưới 40.000 người với một sức sống đạo và nỗ lực truyền giáo đầy năng động. Riêng về mặt giáo dục, Quảng Ngãi có 3 trường Trung học Công giáo uy tín và chất lượng: trường Phụng Sự của Dòng Cứu Thế Châu Ỗ; trường Kim Thông của giáo xứ Quảng Ngãi và trường Đăng Khoa của giáo xứ Trà Câu…
Nhưng rồi chiến tranh đã “mang đi tất cả”, tàn phá tất cả! Vào khoảng cuối tháng 5.1965, trận chiến Ba Gia (thuộc Sơn Tịnh, Tây Bắc Quảng Ngãi) nổ ra khốc liệt; có lẽ đây là “trận địa chiến” đẩm máu và tàn khốc xét về qui mô tham dự của quân đội hai bên (Nam: Việt Nam Cọng Hòa. Bắc: Việt Nam Dân chủ Cọng hòa), về kết quả thương vong và địa bàn diễn ra trận chiến. Đây cũng là “trận chiến” mở đầu cho nhiều “trận địa chiến” khốc liệt tiếp theo trên toàn Miền Nam cho đến ngày ngưng tiếng súng đúng 10 năm sau đó (5.1975).
Việc thắng thua trong cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” nầy hãy tạm “để đó” cho lịch sử phán xét và lượng giá cách công minh; nhưng có một điều không cần lịch sử phán xử nhưng đã trở thành một “sự thật cay đắng”: Công giáo Quảng Ngãi bị ảnh hưởng trầm trọng: gần như toàn bộ vùng phía tây Sơn Tịnh bị tàn phá, bình địa; riêng ba giáo xứ trên địa bàn vùng nầy từ đó cũng bị xóa tên: Cù Và, Tân Lộc, Bình Đông, mang theo các giáo họ trực thuộc: Phước Thọ, Đồng Cọ, Vạn Lộc, Chợ Mới. Phía Bắc, giáo xứ Trung Tín cũng tan vở; chủ chăn và đoàn chiên tất tưởi di tản bỏ lại nhà thờ và cơ sở mục vụ bị bom đạn tiêu hủy. Các giáo xứ phía Nam Quảng Ngãi: Trà Câu, Bầu Gốc, Phú Vang, Châu Me, Kỳ Tân cũng theo nhau di tản, bỏ lại đằng sau những đổ nát kinh hoàng…
Cùng với bao nhiêu nạn nhân chiến cuộc khác, anh chị em giáo dân Quảng Ngãi kẻ chết người bị thương, cùng với gia đình, ban đầu đùm túm tản cư về thị xã Quảng Ngãi; rồi những năm sau đó, dắt díu nhau di tản vào phía Nam: Cam Ranh, Bình Tuy, Long Khánh, Võ Đắt… Cho đến ngày ngưng tiếng súng (30.4.1975), toàn bộ tỉnh Quảng Ngãi còn lại võn vẹn chỉ có 4 giáo xứ: Bầu Gốc (nhà thờ Vĩnh Phú), Quảng Ngãi (nhà thờ cũ và mới tại thị xã), Phú Hòa (Sơn Tịnh) và Châu Ỗ (Bình Sơn), với tổng số giáo dân khoảng 5.000 người!
3.2. Trên cuộc hành hương hy vọng:
Trong viễn tượng đức tin của những người đặt lịch sử hay cuộc sống trên nền tảng của chương trình Lịch sử cứu độ, thì “hy vọng”, “giao ước”, “tín thác”… luôn là những “từ khóa” mang giá trị quy chiếu và định hướng. Thật vậy, sau năm 1975, cho dù có bao nhiêu người, gia đình, cộng đoàn Công giáo Quảng Ngãi phải đón nhận thương đau khổ lụy, mất mát đổ vỡ… Tuy nhiên, rồi từ từ “vết thương cũng lành da”; mảnh đất hoang hóa khô cằn ghi dấu của hoang tàn chiến tranh lại bắt đầu tươi xanh hoa cỏ!
Từ con số 4 giáo xứ với 5 ngàn giáo dân vào năm 1975, sau nửa thế kỷ của cầu nguyện, khát khao và nỗ lực, cho đến tháng 6 năm nay – 2025, Quảng Ngãi đã tái dựng lại 11 giáo xứ, hai giáo họ biệt lập, tương đương 13 cộng đoàn của hơn 50 năm trước,với con số giáo dân trên dưới 11 ngàn. Sau đây là tên của 13 cộng đoàn này tính từ Bắc vô Nam: Châu Ỗ (Bình Sơn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế), Bình Thạnh (Bình Sơn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế), Bình Hải (Bình Sơn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế), Lý Sơn (huyện đảo Lý Sơn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế), Trà Bồng (giáo họ biệt lập thuộc Dòng Chúa Cứu Thế: huyện Trà Bồng), Cù Và (nhà thờ Phước Thọ: Tây Sơn Tịnh, Sơn Hà, Sơn Tây), Phú Hòa (Sơn Tịnh, tp. Quảng Ngãi), Phú Long (Sơn Tịnh), Quảng Ngãi (Tp. Quảng Ngãi và mấy xã thuộc Tư Nghĩa và Nghĩa Hành), Kỳ Tân (Nhà thờ Phú Mỹ: Tư Nghĩa và Mộ Đức) Châu Me (Nhà thờ Kỳ Thọ: Nghĩa Hành, Minh Long), Bầu Gốc (nhà thờ Vĩnh Phú: Mộ Đức), Ba Tơ (giáo họ biệt lập: huyện Ba Tơ). Riêng Trà Câu, một giáo họ thuộc giáo xứ Bầu Gốc đang chờ tái phục hồi đơn vị giáo xứ!
Kết luận: Hành trình đức tin, guồng xe nước và “phượng hồng”:
Từ phía thượng nguồn của con sông Trà Khúc, vào khoảng thập niên 80 của thế kỷ trước, một công trình thủy lợi hiện đại được thiết dựng để mang nước tưới tiêu cho các cánh đồng phì nhiêu của các huyện hạ lưu như Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành… Đó chính là công trình đập nước Thạch Nham, một công trình thủy lợi mang tầm vóc quốc gia.
Thế nhưng, khi đập nước Thạch Nham đi vào hoạt động cũng là lúc những “bờ xe nước” huyền thoại, biểu tượng đặc trưng của vùng đất “núi Ấn sông Trà”, đã lặng lẽ rời đi và không lâu sau đó, đã hoàn toàn vắng bóng, không những trên đôi bờ sông Trà Khúc, mà gần như khắp mọi bờ sống trong toàn Quảng Ngãi!
Dĩ nhiên “bánh xe lịch sử” thì không thể “quay ngược”, và những tiến bộ của hôm nay không thể “đắp chiếu nằm chờ”. Tuy nhiên, trong lãnh vực tình cảm, hoài niệm, truyền thống…, nhất là niềm tin, tín ngưỡng, thì những con kênh nước cuồn cuộn sức sống của thủy lợi Thạch Nham cho dù có hiệu quả, hữu dụng, thiết thực đến đâu cũng không thể bỗng dưng xóa nhòa mọi ký ức, lưu luyến cái chân quê mộc mạc, nhẹ nhàng của những guồng xe nước từng ngự trị bên bờ sông Trà, Sông Vệ đã mấy trăm năm!
Về mặt xã hội, kinh tế, chính trị… có thể việc vắng bóng những guồng xe nước bên bờ tả ngạn sông Trà rồi một sớm một chiều mọi sự sẽ nguôi ngoay cho đến khi “mất dấu” hẳn với bước chạy của thời gian. Tuy nhiên, trong nhịp sống đức tin thì không hẳn thế. “Guồng xe nước đức tin” luôn tồn tại mãi với thời gian mà ngôn ngữ chuyên biệt của Công giáo gọi là “dòng chảy truyền thống”. Những “đồng xu nhỏ của bà góa”, “bình dầu cam tùng của cô Maria Bêtania”, “5 chiếc bánh và 2 con cá của em bé”… nào chẳng phải là những “guồng xe nước Phúc âm” quay mãi với thời gian để đem “dòng suối mát tinh tuyền cho dân Chúa muôn nơi và muôn thuở”.
Trong một xã hội mà người ta đua đòi tìm kiếm “cái mới”, tìm kiếm lợi nhuận và những nhu cầu vật chất, đề cao những giá trị tiến bộ khoa học quá mức đến độ xem thường những giá trị truyền thống, những cội nguồn của luân lý, đức tin…, thì người Kitô hữu Quảng Ngãi phải luôn là những chứng nhân cho những giá trị cốt lõi của Tin mừng, của sự thật, của tình người, của nghĩa khí huynh đệ…
Nếu đã có một thời Quảng Ngãi là “trưởng nữ” của giáo đoàn Đàng Trong, là cái nôi sản sinh ra Giuse Trang, linh mục Việt Nam tiên khởi, là địa chỉ của Dòng Mến Thánh giá Đàng Trong, là quê hương của một nhà văn hóa lớn Gioan Thanh Minh…, thì Quảng Ngãi hôm nay phải có những người cha người mẹ tốt lành thánh thiện, những bạn trẻ anh hùng dấn thân, những linh mục tu sĩ khôn ngoan thánh thiện… Nói cách khác, đức tin của người Công giáo Quảng Ngãi phải như là những “guồng xe nước” lặng lẽ quay đều, quay đều, để dòng nước mát của Tin mừng chảy về những cánh đồng khô hạn.
Màu hoa phượng thắm của tháng 6 hôm nay đang nhắc nhở cộng đoàn tín hữu Công giáo Quảng Ngãi, nhớ về dòng máu và nước tuôn ra từ Thánh Tâm Chúa và những giọt máu hồng của cha ông “vươn vãi” trên dọc con đường dài chứng nhân đức tin 2000 năm lịch sử của Hội thánh; để từ đó, đức tin, Năm Thánh hy vọng, tháng Thánh Tâm… không trở thành “một bài thơ ép hoài trong vở” của “Phượng hồng”, nhưng là một cơ hội, là cái “Giờ” để những “người Công giáo núi Ấn sông Trà” mang “căn cước Kitô” lên đường làm chứng nhân, cam kết để trở thành “những vị thánh của thời đại” như ước mơ năm nào của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II.
Giuse Trương Đình Hiền (28.6.2025)
[1] Thánh nữ Maria Magarita (1647-1690), một nữ tu người Pháp tên thật là Marguerite Marie Alacoque, thuộc Dòng Đức Bà Viếng thăm, vào “Tuần Bát Nhật Thánh Thể năm 1675” đã nhận được một thị kiến: Đức Kitô cho Thánh nữ thấy Trái Tim cực Thánh, và huấn dạy bằng những lời này: “Đây là Trái Tim đã yêu thương nhân loại không bờ bến, không quản ngại một thứ gì cho đến hơi thở cuối cùng để làm chứng cho Tình yêu, nhưng bù lại, Ta chỉ nhận được từ nhiều người, một bội bạc qua sự thiếu tôn kính và lòng xúc phạm, qua sự lạnh nhạt và đôi khi cả sự khinh thường […] Nhưng điều làm Ta cảm thấy đau nhói hơn, đó là ngay cả những người mà trái tim đã dâng hiến cho Ta, cũng làm như thế”. Ngài yêu cầu Thánh nữ thiết lập một lễ Thánh Tâm Chúa, nghi lễ chung cho mọi người! Đến năm 1856, ĐGH Pio IX chính thức thiết lập lễ Thánh Tâm mừng kính long trọng trên toàn Giáo hội. Sau cuộc canh tân Phụng vụ của Công đồng Vatican II, Lễ Thánh Tâm chính thức được cử hành vào Thứ Sáu sau Chúa Nhật lễ Mình Máu Chúa Kitô. Riêng Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, vào năm 1995, đã chọn ngày này làm “Ngày cầu nguyện cho việc thánh hóa các linh mục”.
[2] Xứ Quảng: tên gọi được mặc nhiên dành cho hai địa phương “Quảng Nam và Quảng Ngãi”, vùng đất mà trước chiến dịch “Bình Chiêm” (còn gọi là “chiến dịch Đồ Bàn”) của vua Lê Thánh Tôn (Năm Hồng Đức thứ 2 – 1471) vẫn thuộc Champa. Kể từ năm 1471, đây là vùng đất phía nam của Đại Việt mang tên “Thừa Tuyên Quảng Nam”.
[3] “Ấn Trà”: tên ghép của núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc, hai danh thắng nổi tiếng nằm sát bên nhau và được mặc nhiên xem như biểu tượng của Quảng Ngãi; nhất là với bài vịnh đầu tiên “THIÊN ẤN NIÊM HÀ” (Ấn Trời đóng trên sông) trong 10 bài vịnh về danh lam thắng cảnh của Quảng Ngãi (Quảng Ngãi thập cảnh: 1. Thiên Ấn niêm hà; 2. Thiên Bút phê vân; 3. Long Đầu hí thủy; 4. La Hà thạch trận; 5. Cổ Lũy cô thôn; 6. Thạch Bích tà dương; 7. Hà Nhai vãn độ; 8. An Hải sa bàn; 9. Liên Trì dục nguyệt; 10. Thạch Cơ điếu tẩu) của danh sĩ danh tướng Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) thời Chúa Nguyễn (Võ vương Nguyễn Phúc Khoát và Định vương Nguyễn Phúc Thuần). (x. PHẠM TRUNG VIỆT, Non nước Xứ Quảng tân biên, Khai Trí Sài Gòn 1971, tr. 74-88).
[4] Thanh Thảo, bút danh của nhà thơ, nhà văn, nhà báo có tiếng tại Quảng Ngãi. Ông tên thật là Hồ Thành Công, sinh ngày 16.02.1946 tại Đức Tân, Mộ Đức Quảng Ngãi; thành viên của Hội Nhà văn Việt nam, nguyên chủ tịch hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ngãi. Đã có nhiều tác phẩm thơ ca và nhiều bài nghiên cứu chuyên luận đặc sắc.
[5] Sơn Mỹ, hay ‘Khu Chứng tích Sơn Mỹ”, một địa danh mang “chứng tích chiến tranh” nổi tiếng tại Quảng Ngãi. Vào ngày 16.3.1968 (Năm Mậu Thân), nơi đây, thuộc thôn Mỹ Lai, xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh (nay là thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi), đã xảy ra một cuộc thảm sát do quân đội Hoa Kỳ khiến 503 người dân thiệt mạng, phần đông là người già, phụ nữ và trẻ em.
[6] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội 2017, tr. 81-83.
[7] X. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ – Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb 2017, tr. 469-472.)
[8] X. website https://baocaovien.vn/tin-tuc/lich-su-tinh-quang-ngai-cai-noi-cua-nen-van-hoa-sa-huynh/214945.html
[9] SĐD
[10] X. website https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Sa_Hu%E1%BB%B3nh
[11] PHẠM TRUNG VIỆT, Non nước Xứ Quảng tân biên, Khai Trí Sài Gòn 1971, tr. 23.
[12] NGUYỄN THỊ HAI, TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUỐC HỌC, Ngữ âm tiếng Việt Hiện đại, nxb Thanh Niên 2017, tr. 176-177.
[13] PHẠM TRUNG VIỆT, Non nước Xứ Quảng tân biên, sđd, tr. 51-52.
[14] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017, tr. 47.
[15] SĐD, tr. 51-54.
[16] SĐD, tr. 54-55.
[17] SĐD, tr. 58.
[18] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Documents historiques I, 1658-1728, sđd, tr. 9-10.
[19] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 63.
[20] SĐD, tr. 69-71. (x. ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), chuyển dịch: Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020, tr. 161.)
[21] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 127.
[22] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 91-92.
[23] ĐỖ QUANG CHÍNH SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, nxb Tôn Giáo 2008, tr. 515-516.
[24] Chế độ “Bảo trợ truyền giáo” (Padroado) thường được gọi chung bằng tiếng La tinh là Patronatus hình thành từ sắc chỉ “Inter Caetera” của Đức Giáo hoàng Alexandro VI ký ngày 04.5.1493, “phân chia quyền bảo trợ truyền giáo cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sau đó hai nước ký hiệp ước tại Tordesillas (Tây Ban Nha) vào ngày 07.06.1494, thỏa thuận đường ranh giới là kinh tuyến 30 từ Bắc cực xuống Nam cực. Tây kinh tuyến thuộc Tây Ban Nha; Đông kinh tuyến thuộc Bồ Đào Nha, gồm Phi châu và Á châu…” (x. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017, tr. 44).
[25] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2005, tr. 20.
[26] LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, nxb Hồng Đức 2023, tr. 302.
[27] ADRIEN LAUNAY, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, Documents historiques I, 1658-1728, P. Tequi, Paris 1923, tr. 9-10.
[28] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai Giám mục đầu tiên tại Việt Nam, sđd, tr.120:“Đầu đề của tư liệu này là: Instructio vicariorum apostolicorum ad regna Sinarum, Tonchini et Cocincinae proficiscentium 1659 (Huấn dụ các Đại diện Tông tòa đi các nước Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong năm 1659). Tuy nhiên, theo cách gọi tên truyền thống các văn kiện Huấn quyền, người ta hay chọn những từ đầu tiên; và đây là tên của Huấn thị 1659 được gọi theo cách đó: Quoniam vos ea estis diligentia (Bởi vì chư huynh rất đỗi mau lẹ lo công việc). Cách gọi thông thường nhất đó là “Huấn thị 1659”.
[29] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, Nxb An tôn & Đuốc sáng 2021, Phụ lục 2, Monita ad missionarios, tr. 177.
[30] Công nghị Ajuthia 1664 với văn kiện đúc kết là Monita ad missionarios, thực chất là việc triển khai các định hướng của Huấn thị 1659 để đưa vào áp dụng mục vụ thực hành, nhất là Phần III của Huấn thị này: Tại nơi truyền giáo (In ipsa missione) với 23 mục, trong đó, có ba mục quan trọng liên quan đến hàng linh mục được MONITA tập chú khai triển và đề xuất những phương án hành động:
– Mục (1): Đào tạo giáo sĩ bản quốc.
– Mục (17): Buộc các linh mục giữ đúng kỷ luật truyền giáo.
– Mục (22): Đào tạo linh mục tương lai.
[31] ĐÀO QUANG TOẢN (DỊCH GIẢ), Ký sự Đức cha Lambert de La Motte, Ký sự 6, 1668-1669, số 77, AMEP, vol. 121, p. 744-771, tr. 122-123.
[32] LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660), sđd, tr. 295.
[33] ĐÀO QUANG TOẢN, Lịch sử Giáo phận Đàng Trong, nxb Tôn Giáo 2023, tr. 42
[34] NGUYỄN HỮU TRỌNG, Nguồn gốc hàng giáo sĩ Việt Nam, nxb Tôn giáo 2024, tr. 213.
[35] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 125 &127.
[36] A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine 1658-1823, Documents historiques I, sđd, tr. 100: “… et Mag. Joseph Trang sacerdoti anamitae, pro lingua vulgari anamitica in munus secretarii nostril electo…”
[37] HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN, 350 năm Dòng Mến Thánh Giá từ An Chỉ đến Qui Nhơn, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2020, tr. 59.
[38] SĐD, tr. 65-66.
[39] A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine, III, Paris, 1925, tr. 510.
[40] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb Tôn Giáo 2008, tr. 234.
[41] LM. TRĂNG THẬP TỰ (Chủ biên), Hướng đến 400 năm Văn Học Công giáo Việt Nam (1632-2032), Tủ sách Nước Mặn, Mùa Thu 2022, tr. 313.
[42] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sđd, tr. 234.
[43] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 334.