ĐỂ NIỀM HY VỌNG CỨU ĐỘ THẮP SÁNG ĐỊA CẦU

Views: 2

(CN 29 TN C 2025 – Khánh Nhật Truyền Giáo)

            Chưa đầy ba tháng khi ban hành “Sứ điệp Truyền giáo 2025” (25/01/2025), Đức Giáo hoàng Phanxicô đã được Chúa gọi về (21/4/2025). Có thể nói được đây chính là những lời trăn trối đầy tâm huyết của Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Dân Chúa về sứ mạng loan báo Tin Mừng; và ngài đã cô đọng toàn bộ nội dung ý nghĩa những lời tâm huyết đó qua câu khẩu hiệu: “Những Nhà Truyền Giáo của Niềm Hy Vọng giữa Muôn Dân”. Đức Phanxicô đã quảng diễn tóm tắt ý nghĩa câu châm ngôn này như sau: “Khẩu hiệu này nhắc nhở mỗi Kitô hữu và toàn thể Hội Thánh – cộng đoàn những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội – về ơn gọi nền tảng của chúng ta, là những người bước theo Chúa Kitô, trở thành sứ giả và người kiến tạo hy vọng”.

            Quả thật, truyền giáo hay loan báo Tin Mừng luôn liên quan mật thiết đến niềm hy vọng; vì nói cho cùng, truyền giáo chính là “thuyết phục được mọi người đón nhận niềm hy vọng Kitô giáo” như chính lời của Thánh cả Phêrô: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3,15) (x. Thư Chung Tháng 10/2025 của HĐGMVN, số 5).

Hội Thánh suốt 2000 năm nay đã có không biết bao phương cách để “kiến tạo niềm hy vọng”, để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng và thuyết phục nhiều người muôn nơi muôn thuở đón nhận và cùng bước vào cuộc hành trình của niềm hy vọng cứu độ! Tuy nhiên, có một con đường, một phương thế, một mệnh lệnh gần như tuyệt đối phải thực thi, đó chính là “CẦU NGUYỆN”. Chính Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh “yếu tố cầu nguyện” trong sứ điệp truyền giáo 2025 và đã nại đến chứng nhân cho lựa chọn này là vị Tôi tớ Chúa F.X. Nguyễn Văn Thuận như sau: Những nhà truyền giáo của hy vọng là những con người cầu nguyện, bởi vì “người có hy vọng là người cầu nguyện”, như lời của Đấng Đáng Kính Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã được nâng đỡ trong niềm hy vọng suốt những năm dài bị cầm tù nhờ sức mạnh mà ngài kín múc từ việc cầu nguyện bền bỉ và từ Thánh Thể (x. Đường Hy Vọng, Boston, 2001, 963). Chúng ta đừng quên rằng cầu nguyện là hoạt động truyền giáo tiên quyết và đồng thời cũng là “sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng”.

Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo năm nay (2025) lại rơi vào Chúa Nhật 29 TN Năm C mà toàn bộ sứ điệp Lời Chúa lại tập chú vào việc “cầu nguyện”, một thể hiện hay tác động cốt yếu của niềm tin và của mọi công cuộc hoạt động liên quan đến niềm hy vọng cứu độ.

Trước hết, Bài đọc 1, qua trích đoạn sách Xuất Hành kể lại chuyện nhà Lãnh đạo Môsê, liên tục giang tay cầu nguyện để đoàn quân của thủ lãnh Giosuê chiến đấu và chiến thắng: Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.

Hình ảnh trên đẹp biết bao khi nối kết mối quan hệ mật thiết giữa “đôi tay cầu nguyện của Môsê và đôi chân chiến đấu của Giosuê”. Phải chăng đó cũng chính là mối quan hệ hổ tương trong sứ vụ truyền giáo muôn nơi muôn thuở trong Hội Thánh: cầu nguyện và chiến đấu cho Nước Cha trị đến, cầu nguyện và truyền giáo… Khi nào đôi tay cầu nguyện của chúng ta còn vươn lên, khi ấy chúng ta sẽ mỉm cười mà chiến đấu cho “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” (Kinh Lạy Cha), cho mọi người từ Đông sang Tây từ Nam chí Bắc được chung chia chén rượu mừng trong bàn Tiệc của Thiên Chúa… Nào chẳng phải Chúa Giêsu đã đề ra “chiến lược” đầu tiên trong công cuộc truyền giáo là “cầu nguyện” đó sao! “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa” (Mt 9,38). Chính vì thế, có thể nói được rằng, khi nào đôi tay cầu nguyện của chúng ta buông xuống, chúng ta sẽ có nguy cơ đối diện với những buồn tênh và thất vọng, chán nản với lầm than, thua cuộc và biến chất…; và cuộc sống nầy, thế giới nầy sẽ trở thành “một trại tù buôn tênh tăm tối”, như đêm tối đầy thất vọng buồn tênh của “trại tù bên sông Kwai” thời đệ nhị thế chiến. Chỉ khi nào cầu nguyện thì mọi sự sẽ chuyển biến, đổi thay[1].

Thế nhưng, làm sao để biết và xác tín “cầu nguyện là cần thiết” trong công cuộc truyền giáo, trong sứ mệnh “kiến tạo niềm hy vọng? Trích đoạn Tin Mừng Luca qua dụ ngôn “Vị quan tòa bất chính và bà góa van xin” sẽ là một câu trả lời thích đáng cùng với câu kết luận dụ ngôn của chính Chúa Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”. Chính lời xác định trên của Chúa Giêsu sẽ là điểm tựa, là ánh sáng giúp chúng ta ý thức hơn về việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo và cho mọi nhu cầu chính mình hay của Hội Thánh. Thật vậy, nếu chúng ta quan niệm rằng cầu nguyện chỉ là một cách trốn chạy của người yếu đuối, hay là tình cảm sướt mướt của những người ủy mị, thì chúng ta sẽ dễ dàng “buông tay” và không chóng thì chày, cũng sẽ nghi ngờ tình thương, lòng quảng đại và quyền năng của Thiên Chúa.

Cầu nguyện, nói theo ngôn ngữ của Kilian Mc Gowan: “là nghệ thuật dành cho những kẻ trưởng thành tâm linh”, một nghệ thuật khác với mọi nghệ thuật, vì “việc cầu nguyện đích thực, chân thành luôn đưa tới sự biến đổi con người”. Nói cách khác, cầu nguyện đích thực đó chính là cuộc gặp gỡ thật sự với Thiên Chúa, với Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ trong đối thoại, yêu thương, trao ban và nhận lãnh, theo như kiểu định nghĩa thâm thúy của Thánh Nữ Têrêsa hài Đồng: “Đối với em, cầu nguyện là cái chớp cánh tình yêu, là ánh mắt đơn sơ hướng lên trời cao, là tiếng kêu của lòng biết ơn và của con tim giữa cơn thử thách cũng như giữa niềm hân hoan! Sau cùng, cầu nguyện là cái gì lớn lao, siêu vời, làm triển nở tâm hồn và kết hợp em với Chúa Giêsu”. Và phải chăng, chính nhờ “ánh mắt hướng lên trời cao” đó, vũ khí “cầu nguyện” căn bản đó, mà Thánh Nữ đã mang lại biết bao hoa trái cho công cuộc truyền giáo; đến độ, Giáo Hội đã tuyên phong Ngài là “Vị Quan Thầy các xứ truyền giáo”! Riêng Mẹ thánh Têrêsa Calcutta, một nhà truyền giáo thành công kiệt xuất qua con đường bác ái xã hội, thì xác quyết:“Chúng ta hãy cầu nguyện như chúng ta cần hít thở. Hãy yêu mến cầu nguyện, hãy cảm thấy nhu cầu cầu nguyện trong ngày, và hãy cố gắng mà cầu nguyện. Tôi coi công việc của tôi như một lời cầu nguyện”.

Cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay, nhất là cuộc dấn thân trong công cuộc loan báo Tin Mừng, luôn cần “đôi tay cầu nguyện của Môsê không ngừng đưa lên”, luôn cần sự “kiên nhẫn nài xin tha thiết của bà góa trước của quan tòa”, để khi “bước vào chặng cuối của cuộc sống tại thế”, mỗi người chúng ta có thể lặp lại chính lời của Thánh Phaolô nới với Timôthê trong Bài đọc 2 hôm nay: “Tôi đã đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là Vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng cho tôi trong ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện”.

            Và nếu Đức Mẹ Maria là Người đã dạy Chúa Con bập bẹ những tiếng “Ábba” đầu tiên, đã thỏ thẻ với Ngài trong những tháng năm dài ở Nadarét…, thì Giáo Hội, chúng ta, trong công cuộc truyền giáo hôm nay, đều phải noi theo “Người Trinh Nữ Nguyện Cầu” (Virgo Orans) nầy. Vâng, “Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy chúng con cầu nguyện… như Mẹ đã cầu nguyện với Con mẹ và dạy Ngài cầu nguyện… để cho Tin Mừng của Con Mẹ được tỏa lan trên khắp cùng trái đất và niềm hy vọng cứu độ thắp sáng địa cầu”. Amen.

LM. Giuse Trương Đình Hiền


[1] Nhà văn ERNEST GORDON trong tác phẩm “Ngang qua thung lũng sông Kwai” đã kể lại câu chuyện nhờ hai tù binh cầu nguyện với Lời Chúa mà đã cải tạo toàn bộ đời sống đầy tăm tối thất vọng, bạo lực và tội ác của các tù binh do Nhật cai quản tại trại tù sông Kwai trở thành niềm hy vọng để chịu đựng và vượt qua…