“ĐI VÀ MỜI” THEO DÁNG ĐỨNG GIÊSU

Views: 1

(Chúa Nhật 29 TN B 2024)

          Hội Thánh, đã lâu rồi, chọn ngày Chúa Nhật cuối (hoặc áp cuối) tháng Mười để cầu nguyện cho công cuộc Truyền giáo; vì thế ngày này thường được mang tên “KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO”!

          Trước hết, khi nói đến “Truyền giáo” người ta nghĩ ngay đến sứ vụ “được sai đi” của Hội Thánh lữ hành; và sứ vụ này lại bắt nguồn từ mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” như Sắc lệnh Truyền giáo của Công đồng Vaticanô 2 minh định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi, vì cội nguồn của Giáo Hội gắn liền với việc Chúa Con và Chúa Thánh Thần được sai đến theo ý định của Thiên Chúa Cha” (TG số 1). Riêng Đức Kitô, để thi hành sứ vụ “sai đi” từ Chúa Cha, đã chọn con đường “nhập thể”, đi trên nẻo khó nghèo và phục vụ để Tin Mừng cứu độ sinh hoa kết trái giữa trần gian: “Như thế, bằng con đường nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa, vốn giàu sang, Người đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để lấy sự nghèo khó của Người làm cho chúng ta trở nên giàu có. Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người, nghĩa là mọi người” (TG số 3).

          Chúa Nhật 29 thường niên hôm nay, chúng ta lắng nghe và chiêm ngưỡng dung mạo của Chúa Kitô được Lời Chúa khắc họa trong “dáng đứng của một “Đấng Cứu Thế”, một “Tư Tế” đi qua đau khổ và thử thách, một “Con Người phục vụ và hiến dâng mạng sống”.

Trước hết, ngôn sứ Isaia đã “vẽ chân dung của Đấng Cứu Thế mà dân Israel đang mong đợi trong vóc dáng của một “người tôi tớ đau khổ”; nhưng đó lại là Người “sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ…” (BĐ 1). Thứ đến, như một “hiện thực hoá lời mạc khải của Isaia thời Cựu Ước, thư Do Thái đã mô tả chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế, như một Vị Thượng Tế đến từ trời và chấp nhận mọi hệ luỵ của kiếp phận loài người ngoại trừ tội lỗi: “không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi…” (BĐ 2).

          Trong khi đó, Tin Mừng Máccô, qua câu chuyện “ghen ăn tức ở” xảy ra giữa “Nhóm Mười Hai” sau sự cố hai anh em nhà Giêbêđê “xin xỏ chức quyền”: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”, Chúa Giêsu đã mượn hình tượng “Đấng Mêsia” được tiên báo nơi các ngôn sứ, để tổng hợp về “nhân thân và sứ mệnh” của mình bằng câu phát biểu để đời: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.

          Như vậy, từ những gì đã được mặc khải nơi các ngôn sứ (Người Tôi Tớ đau khổ), đã được nghiền ngẫm và rao giảng bởi các Tông đồ (Con Người đến phục vụ và hiến dâng mạng sống), được tuyên xưng bởi các thế hệ Kitô hữu tiếp nối trong dòng lịch sử (Vị Thượng Tế từ trời chấp nhận phận người chịu thủ thách), quả thật, Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: một Đấng “Thiên Chúa nhập thể làm người”, chịu thương chịu khó, tự hiến vì yêu thương và phục vụ anh em trong khiêm hạ.

          Ý nghĩa nầy chính là chìa khóa lý giải cho sự thuyết phục tuyệt vời của chân lý Kitô giáo, một chân lý được hiện thực nơi chính con người và sứ điệp của Chúa Kitô, một Vị Thiên Chúa đến từ trời, nhưng lại đi qua chính nẻo đường bấp bênh của kiếp phận con người, mà tất cả mọi chúng sinh đều có thể cảm nhận sự đồng điệu và hổ tương, cần thiết và được thăng tiến, như lời xác tín của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia): “Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong bản tính nhân loại của Người, dân chúng tại Á Châu gặp được câu trả lời cho tất cả những câu hỏi sâu sắc nhất của họ, hy vọng của họ được hoàn thành, nhân phẩm của họ được nâng cao và sự ngã lòng của họ được vượt thắng. Đức Giêsu là Tin Mừng đối với các người nam nữ của mọi thời đại và mọi nơi chốn, trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu và sự thật về bản tính nhân loại của mình”[1].

          Và một khi đã chiêm ngưỡng và lãnh hội được sự mặc khải đích thực về Chúa Giêsu như thế, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần thiết phải hoán cải để trở nên giống Ngài hơn, và trở thành “lời chứng thuyết phục” bằng cuộc sống yêu thương, phục vụ, bằng sự can đảm đón nhận hy sinh thập giá như các chứng nhân tử đạo Á Châu-Việt Nam mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng nhắc tới trong tông huấn Giáo Hội tại Á Châu: Xin cộng đoàn đông đảo Các Thánh Tử Đạo Á Châu xưa cũng như nay, không ngừng dạy dỗ Giáo Hội tại Á Châu biết thế nào là làm chứng cho Chiên Con mà các ngài đã giặt trắng áo trong máu của Người (x. Kh 7,14). Ước chi các ngài luôn là những chứng nhân bất khuất cho chân lý này”[2].

          Cũng chính trong tinh thần “làm chứng” bằng yêu thương phục vụ và hiến dâng mạng sống đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong “Sứ điệp Truyền giáo 2024”, đã gọi mời Dân Chúa lên đường truyền giáo bằng thái độ “Đi và mời” của “Dụ ngôn Tiệc cưới” (x. Mt 22:1-14): “Vậy các ngươi đi ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).

          Vâng Đức Thánh Cha lưu ý về thái độ “đi ra” như sau: “Cái bi kịch trong Hội Thánh hôm nay là Chúa Giêsu vẫn đang gõ cửa, nhưng từ bên trong, để chúng ta mở cho Người đi ra! Chúng ta thường trở thành một Hội Thánh ‘giam hãm’ không cho Chúa ra, mà cứ giữ Người lại “làm của riêng mình”, (…) Mong sao tất cả chúng ta, những người đã được rửa tội, luôn sẵn sàng ra đi một lần nữa, mỗi người theo bậc sống của mình, để khai mở một phong trào truyền giáo mới, như là vào thuở ban sơ của Kitô giáo! Trong khi đó, ngài cũng nhấn mạnh đến khía cạnh “truyền giáo” chính là “mời” chứ không áp đặt, trịch thượng: “các môn đệ truyền giáo phải rao giảng với niềm vui, sự độ lượng và nhân hậu vốn là những hoa quả của Chúa Thánh Thần trong lòng họ (x. Gl 5:22). Không phải bằng gây áp lực, cưỡng ép hay chiêu dụ, nhưng bằng sự thân thiện, cảm thương và dịu dàng, và bằng cách này phản ánh cách hiện hữu và hành động của chính Thiên Chúa.” (SĐTG 2024).

          Khi lựa chọn nẻo đường truyền giáo như thế, làm chứng như thế, chắc chắn, lời của Đức Kitô phán dạy hôm nào sẽ trở thành hiện thực: “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” (Ga 15,16). Một cách nào đó, trong góc nhìn Tin Mừng, chúng ta có thể tìm thấy một hiện thực đầy sinh động và thuyết phục để con người hoán cải và tốt hơn nơi những “bước chân trần”, bộ đồ vá trăm miếng “y phấn tảo”, chiếc “nồi cơm điện” với một phần của cúng dường cho một bữa ăn duy nhất và “giấc ngủ ngồi” chập chờn nơi các nghĩa trang hoang lạnh… của thầy Minh Tuệ! Đó không là một “gợi ý” đầy thuyết phục để anh chị em Kitô hữu chúng ta cùng “lên đường thực thi sứ vụ truyền giáo” theo mệnh lệnh của Thầy Chí thánh hôm nào: “Anh em hãy ra đi… Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép…” (Lc 10,3-4).

          Vâng, thế giới chỉ được chữa lành, Tin Mừng chỉ được thuyết phục, và Chúa Giêsu chỉ được yêu mến bởi những chứng nhân như thế, những nhà truyền giáo như thế; những người dám chọn lựa và trung thành với phong cách “Đi và mời” theo dáng đứng Giêsu: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. Amen.

Trương Đình Hiền


[1] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia), số 14.

[2] Sđd, số 49.