MÙA VỌNG: CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI VÀ PHẢI ĐẾN

Views: 25

(CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG NĂM C 2024)

          Tại Việt Nam chúng ta, “hình ảnh hay tên gọi “Lối đi”, “Con Đường” đã trở thành “biểu tượng của văn hóa, văn chương, cuộc sống… mà ngôn ngữ thi ca hay âm nhạc là những chứng từ rõ nét:

– “Lối đi”: hình ảnh của những mối tình thường được các thi sĩ dệt thành thơ:

“Chia tay rồi….

hai người hai lối rẽ

Lòng nguyện lòng ta sẽ mãi quên đi

Dẫu biết rằng còn lại chút tình si

Đoạn đường vắng chợt nghe lòng man mát…”

(Bài thơ “Hai lối đi riêng” của thi sĩ Trần Bảo Đông)

– “Con đường”: Trường ca “Con đường cái quan” của cố nhạc sĩ Phạm Duy, biểu tượng của cả một “lịch sử dài lâu” trong công cuộc dựng nước giữ nước và chất chứa những nét văn hóa bản địa của dân tộc Việt Nam. Đây chính là một “đại nhạc phẩm” với 19 “tiểu khúc” hay 19 bài hát nhỏ phân thành 3 phần:

Phần Thứ Nhất: Từ Miền Bắc, mang tính chất hào hùng của miền quê cha đất tổ.

Phần Thứ Hai: Qua Miền Trung, với tình thương yêu chan chứa niềm xót xa.

Phần Thứ Ba: Vào Miền Nam, tỏ sự vui mừng của con người đã cả thắng thiên nhiên để hoàn thành nước Việt…

          Trên nẻo đường phụng vụ tiến về đại lễ Giáng Sinh, hình ảnh và tên gọi “Con đường” lại được Lời Chúa khắc họa rất ấn tượng ngay từ Chúa Nhật thứ II Mùa Vọng, mà cả sách ngôn sứ Barúc lẫn Tin Mừng Luca đều quy chiếu:

– Bài đọc 1 với trích đoạn sách Barúc: Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa”.

– Tin mừng Luca: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

          Từ việc chính Thiên Chúa sửa dọn đường để đem dân Israel trở về, hay việc ông Gioan Tẩy giả hô hào dân Israel dọn đường đón gặp Đấng Mêsia, đến việc dọn đường tâm hồn để đón Chúa hôm nay trong Mùa Vọng, là cả một cuộc “hành trình khắc nghiệt”, luôn chất chứa nhiều hiểm nguy thách đó, chẳng khác nào cuộc hành trình vô Nam đến với người yêu rong ngôn ngữ ca dao Việt Nam:

“Thương em anh cũng muốn vô,

sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”

Vâng, tình yêu của chúng ta dành cho Chúa vẫn có đó, vẫn còn đó; cũng vậy, tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân chắc chắn cũng không trống rỗng. Tuy nhiên, con đường đến với Thiên Chúa và đến với tha nhân vẫn còn những “truông nhà Hồ”, những “Phá Tam Giang”; hay theo ngôn ngữ của Lời Chúa hôm nay, những “núi cao, hố sâu, đường cong queo…”, làm chúng ta do dự, ái ngại, nhụt chí.

Đối với dân Israel thời ngôn sứ Baruc, thời dân Giuđê bị lưu đày, thành thánh Giêrusalem bị vây hãm rồi triệt tiêu, toàn dân gánh chịu nỗi khổ nhục đau thương…, thì “đồi cao, hố sâu” mà Thiên Chúa muốn bạt xuống chính là sự phai nhạt niềm tin, lãng quên Lề Luật và Giao ước, tinh thần tục hóa trước sự xa hoa của Babylon…; cũng vậy, “núi cao, hào sâu, đường cong queo” mà ông Gioan Tẩy Giả hô hào “bạt xuống, lấp đầy, uốn ngay…”, chính là cách “thờ Chúa ngoài môi mép”, là thói “giữ đạo giã hình kiểu Biệt phái”, là tinh thần tìm kiếm chỗ dựa nơi chức quyền danh vọng của những tư tế, những kẻ giàu có hám danh…

Hiện trạng của Dân Chúa cho dù có tiêu cực và đầy thách đố như thế, nhưng tiêu đích mà Thiên Chúa thiết lập và nhắm đến vẫn là: “Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tửChúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang”, để “mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Thế nhưng, liệu Thiên Chúa có thực hiện những gì Ngài đã loan báo thời lưu đày qua ngôn sứ Barúc? Hay, liệu sau những hô hào của Gioan Tẩy Giả có “ơn cứu độ” có đến không?

Thưa có đấy! Chắc chắn, nhờ sự hoán cải của những “nhóm nhỏ” thuộc “những kẻ nghèo của Giavê”, mà khoảng năm 539 trước công nguyên, Vua Kyrô của Ba Tư chiếm Babylon và đã ra sắc chỉ cho phép đoàn dân Do Thái lưu đày được hồi hương, Giêrusalem được tái thiết. Trong muôn vạn cõi lòng dân Israel đã trào dâng nỗi vui, hy vọng mà hôm nay chúng ta vẫn còn nghe vang vọng trong chính đáp vịnh ca của thánh lễ hôm nay với thánh vịnh 125: “Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan…”

Cũng vậy, vào những “năm thứ 15 dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô…”, sau những lời Gioan Tẩy giả loan báo bên bờ sông Giođan, đã có một “Giêsu người Nagiarét” xuất hiện với “quyền năng trong lời nói cũng như việc làm”: mà những ai đã chọn con đường thẳng đã được uốn, san lấp “tâm hồn nghèo khó, hiền lành, trong sạch, biết xót thương, chấp nhận chịu bách hại vì công chính…”, như anh chàng mù Batime, như ông Giakê Thuế vụ, như người phụ nữ Canan bị loạn huyết, như bà góa nghèo chỉ có hai đồng xu ten, như các anh dân chai dốt nát, như gia đình ba chị em ở Bêtania, như tên trộm bị đóng đinh bên hữu… đều “thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”! Vâng, “Triều đại của Đấng Thiên Sai” (Mêsia) đã đến; những tâm hồn khiêm hạ, khó nghèo đã được đón nhận vào vương quốc: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3).

Và tất cả những điều đó lại vẫn còn nguyên tính thời sự cho ngày tháng hôm nay của chúng ta: tính thời sự của sự hoán cải niềm tin, sửa sai cách sống đạo, uốn nắn lối thực hành phượng thờ trong tương quan với Chúa và canh tân cách ứng xử bác ái yêu thương với anh chị em. Trong bối cảnh của “một Năm Phụng mới” vừa bắt đầu và một “Năm Thánh” sắp khai mạc, thật cần thiết biết bao sứ điệp “xây đắp những con đường hy vọng”, như lời huấn dụ trong Tông sắc “Spes non confundit” của ĐGH Phanxicô: “đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ để nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng như người bạn đồng hành không thể thay thế, cho ta thoáng thấy mục tiêu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.” (SNC số 5).

Thế nhưng, vì “Chúa là Đường”, nên chúng ta yên tâm. Con đường mang tên Chúa, con đường của Tám Mối Phúc Thật, con đường của “mến Chúa yêu người”… sẽ là “đường đi phải đến”. Cho nên, một khi được trang bị đầy đủ hành trang chính là “tình yêu đích thực”; hay như ước mơ và lời cầu nguyện của Thánh Phaolô trong Bài đọc 2: “Ðiều tôi cầu nguyện bây giờ là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu”, thì chẳng có gì là khó, là không thể vượt qua, như câu nói để đời của nhà văn Nguyễn Bá Học: “Đương đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.

Vâng, con đường Mùa Vọng, con đường đến Đức Kitô là “con đường phải đi và phải đến của mỗi người Kitô hữu chúng ta”! Bởi vì, thật ra, Chúa Kitô đang đến với chúng ta trong Thánh lễ nầy; Ngài đến trong Lời và trong Máu Thịt được trao ban cho mỗi người chúng ta.

Trương Đình Hiền