NỮ TU MẾN THÁNH GIÁ VÀ “NGHỆ THUẬT ĐỒNG HÀNH”

Views: 4

Dẫn nhập: Trong ánh sáng “nghệ thuật đồng hành” của Hội Thánh:

          Khi nhắc đến đời tu, ngoài ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, chúng ta không thể nào không nói đến một một yếu tố khác như luật bất thành văn trở thành lời khấn thứ tư: đời sống cộng đoàn. Cộng đoàn, gia đình hay bất cứ một tập thể nào cũng phải trải qua những vấn đề nhức nhối, khó giải gỡ của đời sống chung. Người tu sĩ được mời gọi để hiến dâng cho Chúa trong môi trường của đời sống cộng đoàn. Và hơn nữa, vượt ra khỏi phạm vi cộng đoàn tu trì, người tu sĩ khi hoạt động mục vụ cũng được mời gọi trở thành người đồng hành, giúp đỡ, hướng dẫn người khác để họ có thể nhận ra hành động của Thiên Chúa nơi bản thân họ. Thế nhưng, nhiều khi người tu sĩ dường như không biết phải bắt đầu từ đâu.

Cùng thao thức với sứ mạng loan báo Tin Mừng qua việc đồng hành thiêng liêng, Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” (Evangelii Gaudium) đã nhắn gửi các giám mục, linh mục và phó tế, các người thánh hiến và giáo dân như sau: “Hội Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người – linh mục, tu sĩ, và giáo dân – vào trong ‘nghệ thuật đồng hành’ này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (x. Xh 3:5)[1]. Với lời nhắn nhủ này, người viết cũng xin chia sẻ một chút suy tư về “nghệ thuật đồng hành” trong đời sống cộng đoàn, và hơn nữa là trong đời sống mục vụ với các thiếu nữ lỡ lầm dựa trên các chiều kích của học thuyết xã hội của Giáo hội.

1. Truyền giáo và những “nguyên tắc nền tảng”:

Để liên kết học thuyết xã hội với những điều cơ bản của đức tin, các hành động của Giáo hội phải dựa trên mười nguyên tắc nền tảng là: Phẩm giá con người, Sự sống con người, Liên đới, Tham gia, Ưu tiên người nghèo, Đoàn kết, Quản lý, Bổ trợ, Bình đẳng, Công ích.[2] Việc truyền giáo của Giáo hội cũng không nằm ngoài những nguyên tắc này.

Trước tiên, khi nói đến truyền giáo, chúng ta không thể không nói đến một Đức Giêsu say mê trong sứ vụ cùng với lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Truyền giáo là niềm đam mê của Chúa Giêsu và là sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Chính Chúa đã truyền lửa đam mê ấy cho các vị thừa sai trong đó có Đức Cha Pierre Lambert de la Motte.

2. Nữ tu Mến Thánh Giá và sứ mệnh truyền giáo:

Khi rời bỏ quê hương văn minh và tương lai của một luật sư để sang Miền Viễn Đông xa xôi, Đức Cha Lambert cũng truyền lửa truyền giáo ấy vào dòng Mến Thánh Giá mà ngài sáng lập. Để từ đây, người nữ tu Mến Thánh Giá trở thành “người tông đồ là cánh tay hữu hình và trung gian của Chúa Cứu Thế, hoạt động giữa lòng Giáo Hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô ngay trong môi trường văn hóa, xã hội mình đang sống”[3] qua “hình thức tông đồ căn bản nhất là đời sống thánh hiến trong cộng đoàn”[4] và phục vụ con người cách hữu hiệu hơn qua việc góp phần thăng tiến nữ giới bằng hướng nghiệp, phục hồi nhân phẩm cho phụ nữ lỡ bước.[5]

3. Những thách đố trong nhịp sống cộng đoàn:

Đời sống thánh hiến trong cộng đoàn chính là phản ánh của sự hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng phải nhìn nhận rằng đời sống cộng đoàn gặp không ít khó khăn làm cản trở sự triển nở của sự hiệp thông này. Sự lây nhiễm lối sống phóng túng từ các trào lưu thế tục, chủ nghĩa vật chất cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ dễ dàng lây lan giữa các thành viên trong cộng đoàn và tạo nên những chướng ngại trong việc tuân giữ các Lời Khuyên Phúc Âm. Ngoài ra, những khác biệt của các thành viên trong cộng đoàn về hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, trình độ văn hóa, tính tình, tuổi tác, khả năng, và còn biết bao “sự lệch pha” khác cũng là thách đố nội tại dẫn đến nhiều vấn đề nhức nhối trong đời sống chung, khiến cho các thành viên khó có sự cởi mở và không thể xích lại gần nhau.

4. Những trở ngại trong sinh hoạt mục vụ:

Những trở ngại cho sự hiệp thông trong đời sống tu trì cũng là những trở ngại cho sự đồng hành trong đời sống mục vụ. Kinh nghiệm trong việc đồng hành với các thiếu nữ lỡ lầm có thể giúp ta nhận ra điều đó. Lối sống hưởng thụ và phóng túng về tính dục nơi người trẻ hiện nay đã kéo theo một tệ nạn không thể tránh khỏi, đó là nạo phá thai. Phần lớn những người phá thai còn ở tuổi vị thành niên, đời sống gia đình bị đổ vỡ, họ không được yêu thương và bị lạm dụng. Đồng hành với các thiếu nữ lầm lỡ không chỉ là giúp họ về cơm ăn áo mặc, tìm cách ngăn chặn nạo phá thai, nhưng còn là tạo cho họ một môi trường lành mạnh, công việc ổn định để mưu sinh, và hơn hết là giáo dục họ có một lương tâm ngay thẳng, hiểu biết để không tìm về lối sống trụy lạc cũ, biết phục thiện, làm lại cuộc đời. Việc này quả thật không đơn giản. Bởi vì chúng ta không ở trong hoàn cảnh của họ. Sự khác biệt về hoàn cảnh, trình độ, nền giáo dục… cũng là rào cản ngăn chặn chúng ta mở lòng ra với người khác. Chẳng bao giờ ta dừng lại để suy gẫm và tự hỏi: Đâu là tâm trạng của những thiếu nữ kia? Tại sao họ phạm tội? Chúng ta dễ dàng đóng khung, miệt thị người khác. Thay vì cảm thông, chúng ta lại nhìn vào lầm lỗi của họ, hoặc thay vì nói lời yêu thương, chúng ta lại nói những lời mang tính giáo điều. Chúng ta cần am hiểu tình huống khó khăn mà các bà mẹ trẻ phải đương đầu, hiểu được phẩm giá cao cả của họ. Trong họ còn mang một mầm sống mới, họ cần được bảo vệ, yêu thương, cảm thông để có thể vượt qua những mặc cảm tâm lý và khó khăn hiện tại.

5. Nghệ thuật  đồng hành bằng “đi ra” và “cởi dép”:

Tâm hồn mỗi người là một mảnh đất thánh thiêng, và không chỉ tâm hồn mà thôi nhưng thân xác của người khác cũng là một mảnh đất thánh thiêng. Vì thế, để có thể đồng hành cùng tha nhân, trước hết và trên hết là ta phải “thực hiện một cuộc xuất hành ra khỏi chính mình để tập trung vào Chúa Kitô và Tin Mừng”[6]. “Ra khỏi chính mình” đó là ta học cách “cởi dép” để bước vào mảnh đời thánh thiêng của người khác. Bởi vì kẻ thù lớn nhất cản trở sự phát triển của mối dây hiệp thông vẫn là cái tôi ích kỷ của mỗi cá nhân. Để trở nên “những chuyên viên của tình hiệp thông” như lời Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi thì người tu sĩ phải có khả năng dung hoà sự khác biệt, phải đủ tình yêu và lòng quảng đại dấn thân bước ra khỏi vùng an toàn của bản thân, cộng đoàn, Hội dòng mình. “Ra khỏi mình” để tiếp cận bằng khả năng cảm thấu, lắng nghe người khác, khả năng cùng nhau đi tìm con đường, đi tìm phương pháp. Hơn nữa, ơn gọi căn bản của người nữ tu Mến Thánh Giá là sống mầu nhiệm tình yêu. Chúng ta cần hành động bằng trái tim, cần mang lấy những đau khổ, bất hạnh và tội lỗi của loài người[7] để chuyển cầu trước mặt Thiên Chúa, cần giúp các thiếu nữ lỡ lầm tìm thấy ý nghĩa, niềm vui và sức mạnh từ đau khổ, giúp họ nhận ra tình yêu mạnh hơn yếu đuối và thử thách, và giới thiệu cho họ một Thiên Chúa nhân hậu, luôn dang tay ôm trọn mọi tâm hồn đau khổ và chờ đợi những ai lầm đường lỡ bước quay về như lời bài hát “song hành bên Chúa” của nhạc sĩ Vũ Đình Ân:

Song hành bên Chúa lòng xót thương

Song hành bỏ hết mọi vấn vương

Song hành chỉ có tình mến thương

Song hành cùng tiến về thiên đường.

Kết luận: Trên nẻo Emmau:

Hình ảnh Chúa Giêsu cùng song hành với hai môn đệ trên đường Emmau cho người tu sĩ chúng ta một hình mẫu về sự đồng hành: đồng hành không chỉ là cùng nhau bước đi, nhưng đó là cả một tiến trình, một nghệ thuật tiếp cận uyển chuyển đòi hỏi sự tin tưởng và chân thành. Dù là đời sống cộng đoàn hay đời sống mục vụ, đồng hành luôn cần thiết để chúng ta xích lại gần nhau hơn, để xây dựng đời sống thánh thiện và tinh tuyền. Xin Thiên Chúa khơi dậy nơi chúng ta khát vọng chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an cho tha nhân, và ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sáng tạo để thích ứng với nhu cầu của xã hội mà phục vụ con người cách hiệu quả hơn.

Nt. Maria Huỳnh Thị Ngọc Duyên (MTG. Qui Nhơn)


[1] ĐTC Phanxicô, Tông huấn Evangile Gaudium, số 169.

[2] Website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/muoi-nguyen-tac-nen-tang-cua-hoc-thuyet-xa-hoi-giao-hoi-cong-giao-42142, truy cập ngày 12/5/2024.

[3] Hiến chương Hội Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, trang 65.

[4] SĐD, trang 66.

[5] SĐD, trang 70.

[6] Website https://www.cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/cuoc-xuat-hanh-ra-khoi-chinh-minh_a2093, truy cập ngày 12/5/2024.

[7]X. Hiến chương Hội Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, trang 69