Views: 38
QUI NHƠN[1] – THỊ NẠI TRONG “CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC”
Vào chuyện:
Ngày nay, khi bàn đến các lãnh vực kinh tế chính trị trên thế giới, người ta thường sử dụng thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics)[2] hay “địa kinh tế” (Geo-economics)[3] để chỉ những mối tương quan, những ảnh hưởng, giao thoa, những sức mạnh và điều kiện tương tác, áp lực… lên nhau và lẫn nhau của các quốc gia, các châu lục, các vùng lãnh thổ, các khối kinh tế-văn hoá-tôn giáo, các hệ thống chính trị…
Vì thế, chương trình “vệ quốc và kiến quốc” của bất cứ quốc gia dân tộc nào cũng đều liên quan mật thiết đến “địa chính trị”; nói cách khác, sự ổn định và phát triển, tồn tại hay biến mất của một quốc gia luôn kèm theo vấn đề “lãnh thổ” hay “không gian sống” và những vị trí chiến lược trên đó, như Klaus Dods phát biểu: “Một nhà nước mạnh mẽ và thành công sẽ không bao giờ thoả mãn với những giới hạn đang có, và sẽ tìm cách bành trướng về lãnh thổ và bảo đảm “không gian sống” (living space)… Tìm kiếm không gian sống là một quy luật Địa chính trị cơ bản và không thể thay đổi – theo đúng nghĩa đen, là một thực tế của cuộc sống trên trái đất”[4].
Nhờ được hội tụ các yếu tố chủ lực rất thuận lợi về phương diện “địa chính trị” cũng như “địa kinh tế” như: sở hữu nhiều vị trí chiến lược về giao thương (đường bộ, đường hàng không cũng như đường biển), cường quốc dân số, ổn định chính trị, ngôn ngữ và văn hoá mang tính hội nhập cao, truyền thống kiến quốc và vệ quốc thành công, trình độ dân trí phát triển…, trải qua nhiều thế kỷ, đặc biệt,kể từ thế kỷ 21 nầy, Việt Nam trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều thế lực trong bang giao quốc tế.
Thật vậy, không phải chỉ thời nay, dải đất hình chữ S với Biển Đông bao bọc nầy, mà suốt chặng đường 20 thế kỷ qua, đã là vùng “địa chính trị” từng diễn ra những cuộc tranh chấp, binh biến, xâm lăng, đô hộ; những cuộc chiến tranh sinh tử, một mất một còn, giữa các quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, Champa, Chân Lạp Khmer, Xiêm….
Vào đầu thế kỷ 19, sau khi tiêu diệt Nhà Tây Sơn (1802), thu giang sơn về một mối, cơ bản Triều Nguyễn Gia Long đã kiến tạo nên một đất nước Việt Nam thống nhất như chúng ta đang thấy hôm nay. Tuy nhiên, để có được một dải đất hình chữ S duyên dáng bên bờ Biển Đông, một đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập, phồn thịnh hoà bình như hôm nay, muôn thế hệ người Việt chúng ta đã phải trả cái giá máu xương và mồ hôi nước mắt không nhỏ cho công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” lẫy lừng trải qua “những ngàn năm lịch sử”.
Nếu đặt công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” nầy trong lăng kính “địa chính trị” hôm nay, chúng ta sẽ thấy hiện lên những địa danh, vị trí chiến lược, có thể nói được, là yếu tố quyết định cho một triều đại, một hệ thống chính trị một thời của Việt Nam.
Trong số đó phải kể đến THỊ NẠI – QUI NHƠN, một địa danh, một vị trí chiến lược, mà nếu đế quốc Champa giữ được trong trận nam tiến của vua Lê Thánh Tôn năm 1471 thì “Đồ Bàn sẽ không bị xoá tên” và sẽ không có BÌNH ĐỊNH-QUY NHƠN của Việt Nam như hôm nay. Cũng vậy, nếu nhà Tây Sơn không bị đại bại trong trận hải chiến kinh hoàng với hạm đội của Nguyễn Ánh trong đêm “Thị Nại đẫm máu năm 1801”, thì liệu Bắc, Trung, Nam đã về một mối hay chưa; hoặc giả, diện tích Việt nam có thể rộng gấp đôi bây giờ ?
Chính trong cái nhìn đó, xin đóng góp vài gợi ý suy tư trong chủ đề “QUI NHƠN-THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC”.
PHẦN MỘT: TAN YẾU HUYỆT MẤT CƠ ĐỒ
(Đồ Bàn – Thị Nại trong chiến dịch Bình Chiêm 1471)
I. ĐỒ BÀN – THỊ NẠI: YẾU HUYỆT VÀ CƠ ĐỒ
1. Tổng quan lịch sử:
Trong vòng 200 năm, từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15, dải đất dọc theo bờ Biển Đông mang dáng hình chữ “S” mà hôm nay chính là vùng lãnh thổ của nước Việt Nam ta đã từng là vùng đất của ba quốc gia lúc thịnh lúc suy mà “tương quan chiến tranh” chiếm thời gian gần như nhiều hơn “tương quan hoà bình”:
– Phía bắc là Đại Việt với các vua triều Lê mà mạnh nhất là triều đại của vị minh quân Lê Thánh Tôn (1460-1497)[5].
– Phía trung là Champa, cực thịnh thời vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman IV trị vì từ năm 1285 đến năm 1305), suy yếu dần thời Chế Bồng Nga (Po Binnosuor, khoảng từ năm 1328 đến năm 1373)[6], và bị suy vong thời Trà Toàn (? – 1471)[7].
– Phía nam là Chân Lạp (Khmer), một đế quốc hùng mạnh với một lãnh thổ bao la, rực rỡ vào các triều vua Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295), Srindravarman (trị vì 1295-1309) )…, để rồi suy tàn sau khi người Thái (Ajutthaya) chiếm thánh địa Angkor và người Champa giành lại những vùng đất phía nam trù phú[8].
Tuy nhiên, “bản đồ của 3 vương quốc bên bờ Biển Đông” đó gần như đã được vẽ lại hoàn toàn sau biến cố lịch sử: chiến dịch “Bình Chiêm năm 1471” của quốc vương Đại Việt, Lê Thánh Tôn; và thời điểm đó cũng là cột mốc ghi nhận vương quốc Champa hùng mạnh một thời ở Đông Nam Á đã trở thành một “nhược quốc” khiêm tốn trấn thủ vùng Panduranga (Phan Rang, Bình Thuận) cho đến khi chính thức bị xoá tên trên bản đồ thế giới vào thế kỷ 17 dưới triều các vua nhà Nguyễn của Việt Nam[9].
2. Đồ Bàn – Thị Nại: một thoáng “địa chính tri”:
2.1. Đồ Bàn: Quốc đô của hai vương quốc:
Từ thế kỷ thứ 10 đến 15, có thể nói được vương quốc Champa đã trải qua những thăng trầm dâu bể mà dấu ấn lịch sử ghi đậm qua ba tên gọi cũng là ba “quốc danh” hay “quốc đô”: Indrapura (Đồng Dương) phía bắc (Quảng Nam tới Quảng Bình); Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn) miền trung (Bình Định tới Quảng Ngãi); và Panduranga (Phan Rang tới Bình Thuận). Riêng kinh đô Vijaya (Đồ Bàn) là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị quan trọng nhất và tồn tại xuyên suốt năm thế kỷ, cho đến khi thất thủ và thuộc về Đại Việt trong trận đại chiến năm 1471[10].
Chắc chắn, cũng vì chiếm vai trò quan yếu trong vị thế “địa chính trị” đó, nên hơn 300 năm sau, Nhà Tây Sơn đã quyết chọn chính vùng lãnh địa nầy để phát khởi cơ đồ và xây dựng quốc đô mang tên “Hoàng Đế Thành”, như nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang ghi nhận: “Trên cùng một địa điểm, lần lượt hiện diện hai toà thành của hai vương triều, hai tộc người cách nhau hơn 300 năm, với hai tên gọi: Đồ Bàn (Champa), Hoàng Đế (nhà Tây Sơn), cùng giữ vai trò kinh đô trong mỗi giai đoạn lịch sử…”[11].
Nhưng để có một khái niệm tổng quát nhưng cũng khá đầy đủ về “vị thế chiến lược” của “Đồ Bàn”, chúng ta có thể đọc lại cách mô tả của tác giả Nguyễn Thanh Quang, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về “Qui Nhơn-Bình Định học”:
“Việc xây dựng kinh thành Đồ Bàn cho thấy rằng: người Chăm xưa rất giỏi trong việc sử dụng và kiến tạo địa hình. Một tài liệu viết thời vua Thành Thái “Thành Chà Bàn (Đồ Bàn), dựa vào núi Long Cốt để làm thế vững. Thành hình vuông rộng hơn 10 dặm, mở 4 cửa, xây bằng gạch, rào gỗ, tuy không có hào rãnh mà vẫn kiên cố…”.
H. Parmentier – một kiến trúc sư người Pháp, sau khi khảo sát nghiên cứu, viết về thành Đồ Bàn như sau: “Trên đường cái quan cách thành Bình Định mươi cây số, thấy vết tích một khu thành Chàm, mà kích thước được xếp hàng đầu trong số những công trình quân sự của dân tộc này… Một nhánh sông Bình Định bảo vệ phía Bắc… Tường bằng đất ốp đá ong… tòa thành được tạo bởi những gò đất có tính toán…”. Mặt khác, thành Đồ Bàn còn có tấm lá chắn vững chắc bảo vệ mặt biển, trấn giữ cảng Thị Nại (một thương cảng lớn lúc bấy giờ), cách thành Đồ Bàn khoảng 10km, đó là thành Thị Nại.
Địa thế kinh đô Đồ Bàn cũng chính là địa thế của thành Hoàng Đế được Nguyễn Văn Hiển nhận xét: “Thành Đồ Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh… bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy”.
Thành Hoàng Đế có quy mô lớn nhất trong hệ thống thành cổ Việt Nam còn đến nay (có chu vi 7.575m). Được coi là nơi “thắng địa”, vị trí cao thoáng, lấy núi Mò O làm tiền án phía Đông, núi Tam Sơn làm lá chắn phía Nam, phía Tây là những dải đồi thấp nối tiếp nhau trải dài tạo tấm lá chắn giăng trước lũy. Ba mặt thành, phía xa là các dòng sông uốn lượn như hào tự nhiên che chắn. Thành được xây dựng trên thế đất hội tụ núi sông liền kề, liên kết điệp trùng, vừa có thế công vừa có thế thủ…”[12].
2.2. Đồ Bàn: Miền đất định hình:
Đồ Bàn, thực ra, không chỉ dừng lại ở tầm mức “giá trị chiến lược quân sự” mà, theo cách đánh giá chuyên môn về “địa lý”, còn là “miền đất định hình” toàn bộ cấu trúc xã hội: “Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của địa cầu (…); không chỉ là cảnh quan tự nhiên – như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc sự kết nối của mạng lưới sông ngòi – mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực văn hoá và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh, từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo”[13].
Nhận xét trên quả thật không ngoa, khi 200 năm sau, chính vùng đất nầy, đúng hơn, vùng ngoại biên phía đông, đã được các vị tiên vương triều Nguyễn chọn cảng biển Nước Mặn là trung tâm giao thương chiến lược ở tuyến đầu biên giới phía nam; riêng các nhà truyền giáo Kitô giáo phương Tây, cũng đã chọn nơi đây là trung tâm truyền giáo chính thức và cũng là cư sở đầu tiên để kiến tạo chữ Quốc ngữ[14]. Và sau đó một thế kỷ nữa, những “anh hùng áo vải Tây Sơn” đã chọn miền “phế tích Đồ Bàn” để xây dựng “Thành Hoàng Đế”[15], trung tâm của một vương triều, cho dù chỉ tồn tại có mấy chục năm (1771-1802), nhưng đã làm nên một “đế chế oai hùng” của dân tộc Việt vào thế kỷ 18, với những cuộc chiến thắng lẫy lừng quân Thanh phía bắc và quân Xiêm phía nam[16].
2.3. Thị nại thành: Hệ thống phòng thủ đắc địa:
Nếu nhắc đến địa danh Đồ Bàn, quốc đô của vương quốc Champa và sau đó, trên phế tích của “Đồ Bàn” là “Hoàng Đế Thành” của vua Thái Đức nhà Tây Sơn, thì không thể không đề cập tới Thị Nại, một thương cảng[17] và quân cảng quan trọng bậc nhất của cả hai triều đại trên; đây cũng là “vị trí chiến lược”, một bức “phên dại thiên nhiên” cũng là yếu huyệt để che chắn cho thành Đồ Bàn thời Champa hay Hoàng Đế thành, Qui Nhơn thành thời Tây Sơn.
Chúng ta có thể đọc lại đôi dòng giới thiệu về vị trí chiến lược của Thị Nại trong một khảo luận khá chuyên sâu về của tác giả Đào Đức Chương: “Vào cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm là Hari Varman II (988- 998), dời đô đến miền Bắc Vijaya, lập kinh thành Đồ Bàn, nay là thôn Bắc Thuận và Nam Tân (tức thôn Nam An cũ thuộc phạm vi thành, hợp nhất với Tân Ninh) thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Kinh đô mới có địa thế phòng thủ tốt. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều được núi non che chở, phía Đông là đồng bằng có núi Long Cốt (cao 43 mét) làm tiền án ngó ra đầm Thị Nại. Vì vậy, muốn chiếm Đồ Bàn phải tiến quân vào Thị Nại, yết hầu của kinh đô. Nơi đây kín đáo, có thể chứa cả ngàn chiến thuyền, thuận tiện cho việc đổ bộ cùng lúc hàng vạn quân. Bởi ưu thế đó, Thị Nại đã gắn liền với lịch sử qua những trận đánh lớn, một mất một còn. Theo Việt Sử Tân Biên và các tài liệu sử khác, ngót 10 thế kỷ qua, đầm Thị Nại ít nhất cũng đã 12 lần có mặt trong quân sử”[18].
II. ĐỒ BÀN – THỊ NẠI TRONG “CHIẾN DỊCH BÌNH CHIÊM 1471”
1. Một thoáng nguyên nhân:
Như đã nói trên, vương quốc Champa thời Trà Toàn tương ứng với Đại Việt thời vua Lê Thánh Tôn; và tương quan chính trị giữa vương triều Đại Việt phương bắc và Chiêm Thành phía nam, vốn đã xấu đi từ thời Chế Bồng Nga[19], đã trở thành hai thế lực đối đầu “một mất một còn” kể từ khi Trà Toàn thay thế bào huynh Trà Duyệt lên ngôi vương đế.
Ngoài yếu tố “con người” như cách nhận định của sử liệu “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ” đã dẫn (Ghi chú 7), cuộc chiến sống còn của hai vương quốc kề nhau Việt – Chiêm, như cách nhận định của Graham Allison, “Đó là cuộc chiến được dẫn dắt và thúc đẩy bởi những yếu tố mang tính ‘định mệnh’, hầu như không thể tránh khỏi”[20]; và đây cũng là ý kiến mà tác giả trên đã căn cứ nơi tác phẩm của một văn hào thời Hy Lạp cổ: Cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnese” củaThucydides, trong đó, có một câu phát biểu đã trở thành một biểu ngữ “bẫy Thucydides”: “Chính sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi mà nó gây ra ở Sparta đã khiến chiến tranh trở thành điều cốt yếu”[21].
Và tất cả những điều trên gần như bàng bạc trong “Sắc chiếu bình Chiêm” của vua Lê Thánh Tôn mà chúng ta có thể đọc thấy qua vài trích dẫn: “Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống loài chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Luỹ như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó xưng bừa là cha chú, gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, lại nhận liều là trời phật, coi nước ta là tôi tớ. Tội ác chất chồng, giấu sao cho nổi? Những lời lăng nhục không thể nêu tường… Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm lòng…”[22].
Và cả hai đã rơi vào cái “bẫy Thucydides”[23] mà chiến trường quyết định lại là chính đế đô của vương quốc Champa lừng lẫy một thời !
2. Tan yếu huyệt, mất cơ đồ:
Trong thời vương quốc Champa, cảng Thị Nại trải qua bốn cuộc đại thuỷ chiến; trong số đó có hai lần chiến thắng nghiêng về Champa[24] và hai lần Champa đại bại[25]. Riêng lần sau cùng khai diễn vào năm Canh Dần (1470) và kết thúc vào năm Tân mão (1471) trong chiến dịch “Bình Chiêm sách” của vua Lê Thánh Tôn, khi tiền đồn Thị Nại vỡ trận cũng là lúc Đồ Bàn thất thủ sau đó không lâu[26]. (x. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ)[27].
Có thể nói được, vương quốc Champa, một thời lừng lẫy với kinh đô Đồ Bàn và quân cảng Thị Nại, gần như chính thức bị “giải thể” từ năm 1471. Vùng đất nầy chính thức trở thành Thừa Tuyên Quảng Nam thuộc Đại Việt. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt mang về kinh; sau mấy tháng lâm bệnh chết và bị chém bêu đầu như một tên tội phạm. Một bộ tướng của Trà Toàn là Bô Trì Trì mang theo một nhóm tàn quân vào cát cứ tại Phan Rang tái lập quốc và xin triều cống nhà Lê như một tiểu quốc ngang tầm với Nam Bàn và Hoa Anh lúc bấy giờ[28].
Phải chăng vì biết vận dụng hiệu quả các “yếu điểm chiến lược” của Thị Nại mà người Champa đã hai lần chiến thắng cuộc xâm lược của nhà Minh (1284) và nhà Trần (1377), giữ vững kinh đô Đồ Bàn. Trong khi đó, với sự chủ quan và sơ hở nhiều mặt, triều đình Champa của Trà Toàn đã để mất Thị Nại, dẫn đến “Đồ Bàn thất thủ”; từ đó, coi như vương quốc hùng mạnh Champa điêu tàn. Đúng là: khi “yếu huyệt đã tan” thì “cơ đồ cũng diệt vong” !
Trương Đình Hiền
- Xem tiếp PHẦN HAI: TAN THỊ NẠI MẤT GIANG SƠN (Triều đại Tây Sơn và trận hải chiến Thị Nại 1801)
- Xem tiếp PHẦN BA: THẾ THỜI PHẢI THẾ (Quy Nhơn – Thị Nại trong “thế chiến lược vệ quốc” hôm nay)
[1] QUI NHƠN “I ngắn” dành cho khái niệm về một “QUI NHƠN LỊCH SỬ”, một địa danh xuất hiện trong lịch sử Việt Nam kể từ năm 1602, khi Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui Nhơn. Đây là tên đơn vị hành chánh chính thức của “danh mục thành phố” theo Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 8.7.2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bảng danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam, tỉnh Bình Định có đơn vị hành chính là TP.Qui Nhơn. Đây cũng là danh xưng được sử dụng lâu đời trong hệ thống mục vụ của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam: Địa phận (hay Giáo phận) Qui Nhơn, nhà thờ Chính Toà Qui Nhơn…. Trong khi đó, Quy Nhơn “Y dài” dành để chỉ “Thành phố Quy Nhơn”, một trong những “đơn vị hành chánh” thuộc tỉnh Bình Định, mới chính thức được thành lập năm 1986.
[2] PGS TS PHAN VĂN RÂN-TS NGÔ CHÍ NGUYỆN, Mối quan hệ giữa địa chính trị và địa kinh tế: Lý luận và thực tiễn, website http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2920-moi-quan-he-giua-dia-chinh-tri-va-dia-kinh-te-ly-luan-va-thuc-tien.html: “thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics) mới lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển John Rudolf Kjellén vào năm 1899 trong tác phẩm “Nhà nước như một cơ thể sống” (The State as a Living Form). Trong đó, J. R. Kjellén cho rằng, các yếu tố địa lý và môi trường tự nhiên sẽ quy định các đặc điểm về chính trị, kinh tế và quân sự của mỗi quốc gia theo nghĩa chúng có thể tạo thuận lợi hoặc kìm hãm các quá trình phát triển chính trị, kinh tế – xã hội, đồng thời góp phần định hình văn hóa chính trị, bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Từ sau đó, thuật ngữ “địa chính trị” được bàn luận nhiều trong các lý thuyết về chính trị và quan hệ quốc tế cũng như được vận dụng phổ biến trong hoạch định và thực thi chiến lược, chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, nhất là của các cường quốc”.
[3] Sđd: “…Theo quan điểm của Luttwak, địa kinh tế là hình thức mới của sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia sau chiến tranh lạnh. Ông cho rằng, chính trị quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mặc dù vẫn bị chi phối bởi cạnh tranh sức mạnh giữa các nhà nước nhưng chiến trường chủ yếu là kinh tế thay vì quân sự, phương tiện ưa thích được các nhà nước sử dụng để theo đuổi các mục tiêu đối kháng nhau sẽ là kinh tế hơn là quân sự. Theo Luttwak, sức mạnh quốc gia trong kỷ nguyên địa kinh tế xuất phát từ vốn tư bản thay vì sức mạnh hỏa lực, đổi mới dân sự thay cho tiến bộ kỹ thuật quân sự và thâm nhập thị trường thay cho các đồn bốt và căn cứ…”
[4] KLAUS DODS, nguyên tác “Geopolitics”, bản dịch Việt ngữ: Địa chính trị, Dịch giả: Nguyễn Nguyên Hy, nxb Tri Thức 2019, tr. 60.
[5] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ TRỌN BỘ, Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. Nhà Xuất Bản Thời Đại 2013. Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục, Quyển XII, Kỷ Nhà Lê (Tiếp theo), tr. 610: (Vua huý là Tư Thành, lại huý là Hạo, con thứ tư của Thái Tôn, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dù Vũ đế nhà Hán, Tái Tôn nhà Đường cũng không hơn được…).
[6] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html
[7] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466: “Trước đó, Người Chiêm Thành ở Thị Nại là Bàn La Trà Duyệt là con người vú nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền, rồi cướp lấy nước mà truyền cho người em là Trà Toàn. Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại còn ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần của triều đình, quấy nhiễu dân biên giới, lừa gạt người Minh để xin viện trợ mà sang ăn cướp…”
[8] WIKIPEDIA, Đế quốc Khmer, website
[9] WIKIPEDIA, Panduranga – Champa, website https://vi.wikipedia.org/wiki/Panduranga-Ch%C4%83m_Pa
[10] Sđd, Đồ Bàn, website
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n: “Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay. Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông”.
[11] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người, nxb Văn Hoá – Văn Nghệ 2020, Bài 004: THÀNH HOÀNG ĐẾ MỘT ĐỊA ĐIỂM HAI LẦN KINH ĐÔ,tr. 194.
[12] Sđd, Bài 005: Không gian “tử thành” hoàng đế vẫn còn là ẩn số, tr. 212-213.
[13] TIM MARSHALL, Những tù nhân của địa lý (Prisoners of Geography), PHAN LINH LAN dịch, nxb Hội Nhà Văn 2020, Lời Giới Thiệu, tr. 12-13.
[14] NGUYỄN THANH QUANG, LM. GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề về chữ Quốc Ngữ, nxb Khoa Học Xã Hội 2020, tr. 20: Chữ Quốc ngữ ở Nước Mặn. “Nước Mặn là một trong những trung tâm ra đời sớm nhất của chữ Quốc ngữ. Nước Mặn là một cảng thị phát triển nhất của phủ Qui Nhơn (Pulo Cambi, Bình Định) trong thế kỷ XVII – XVIII và là một trong những cảng thị hưng thịnh nhất của dinh Quảng Nam. Do vị trí giao thương thuận lợi, Nước Mặn là nơi quy tụ các sản phẩm của vùng đồng bằng và núi rừng Qui Nhơn, cả vùng Tây nguyên, qua sông Côn chuyển về, để giao thương trực tiếp với các thuyền buôn nước ngoài đến đây hoặc từ đây chuyển qua Hội An. Nước Mặn cũng là một trong những cơ sở quan trọng của các giáo sĩ phương Tây, nhất là Dòng Tên đến truyền giáo và học tiếng Việt, dùng chứ cái Latin ghi âm tiếng Việt. Từ năm 1618 tại Nước Mặn đã có mặt các giáo sĩ: Cristoforo Borri (1583-1632) người Ý (có người cho là người Bồ), Francisco de Pina (1585-1625) người Bồ, Francesco Buzomi (1576-1639) người Ý, trong đó Borri ở lại từ năm 1618 đến năm 1622, Pina từ năm 1618 đến năm 1620, Buzomi từ năm 1618-1623 (Theo Roland Jacques, sđd, tr.29, sau đó còn ở Đàng Trong). Tháng 7 năm 1618, Nước Mặn trở thành cư sở đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong”.
[15] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người, sđd, tr. 186: “…Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài tới 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bể cao tới 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm một cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ Môn… Phía tây thành có đắp con đê Đỉnh Nhĩ để phòng nước lụt, phía tây nam có đàn Nam Giao để tế trời đất…”.
[16] Sđd, Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, tr. 179: “Năm 1771, anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân chiếm phủ thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Diên Khánh (Phú-Khánh), Bình Khang (Ninh Thuận), Bình Thuận, Quảng Nam… Năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ đem quân vào Nam, bằng chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, quân đội Tây Sơn đánh tan 5 vạn quân Xiêm. Cuối năm 1788, Tôn sĩ Nghị đem 29 vạn quân Thanh xâm lược nước ta. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, xuất quân ra Bắc… Trưa ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu – 1789, Quang Trung với chiếc áo bào nhuộm đen khói súng, trên mình voi chiến, dẫn đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long giữa sự hân hoan đón mừng của nhân dân 36 phố phường. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta”.
[17] Sđd, tr. 491: “Thương cảng Thị Nại của vương quốc Champa đã trở thành một điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực, là trung tâm liên khu vực, kết nối các trung tâm thương mại lớn của khu vực và quốc tế. Trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại, đầm Thị Nại, còn có hệ thống thuỷ lộ, dòng sông Côn được coi như một sợi dây liên kết, một con đường chuyển vận văn hoá cũng như các mối giao thương về kinh tế giữa miền ngược và miền xuôi của vùng Vijaya (Bình Định)”.
[18] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại, Phần VI: Thị Nại trong lịch sử, website https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html
[19] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV, website http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html: “Chế Bồng Nga ra sức xây dựng quân đội, dồn tất cả nguồn lực cho hàng chục cuộc tiến công lên hướng Bắc. Trong 30 năm đã tiến hành trên 15 trận đánh lớn, và có khi chỉ trong 8 năm năm nào cũng đánh, có hai lần đến tận Thăng Long cướp phá, và trở về, lúc này ở Đại Việt đang là lúc mà nhà Trần suy yếu…”
[20] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch, nxb Hà Nội 2019, Lời Giới thiệu, tr. 8.
[21] Sđd, tr. 64.
[22] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466-467.
[23] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), sđd, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe doạ thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều nầy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.
[24] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại…, sđd:
Ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284), 50 vạn quân Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Mông Cổ là Thoát Hoan (Tuo Huan), chia quân làm hai đạo: bộ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn, giả tiếng mượn đường Đại Việt đi đánh Champa. Thủy quân do Toa Đô (Suo Du) dẫn đầu, gồm 1000 chiến thuyền và 10 vạn quân, từ Quảng Châu tiến thẳng vào đầm Thị Nại của Chăm quốc. Vị trí tiền tiêu bảo vệ kinh đô Đồ Bàn là thành Thị Nại nằm bên bờ sông Gò Tháp, thuộc Nam Phái [16] sông Côn, ở địa phận xã Phước Hoà, túc trực 1 vạn quân, có trang bị voi chiến, chặn các đường hiểm yếu không cho quân Nguyên tiến vào kinh đô. Toa Đô đánh mãi không được, đành phải bỏ Thị Nại, theo đường bộ vào Đại Việt, đến Nghệ An, rồi rút ra Bắc, định họp quân với Thoát Hoan, nhưng bị bao vây ở Tây Kết (một làng nhỏ ở bờ sông Hồng), trúng tên, bỏ thây ở chiến trường.
Năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đem 12 vạn quân đi đánh Champa. Ngày 23 tháng giêng, đại quân tiến vào cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều, chiếm động Kỳ Man (động cát ở chân núi Xuân Quang, gần Gành Ráng và Qui Hoà). Quân ta đang đắc thắng thì vua Chăm là Chế Bồng Nga giả kế trá hàng. Đại tướng Đỗ Lễ biết mưu gian của địch, can vua Duệ Tông, nhưng vua không nghe, bảo rằng: “Dụng binh quý như thần tốc. Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.”. Rồi nhà vua cho tiến quân ào ạt đến Đồ Bàn. Quân Chăm phục kích sẵn ở chỗ hiểm yếu, bất thần bốn mặt giáp công, khép chặt vòng vây. Quân ta tuy đông nhưng không phòng bị nên thua to. Vua Trần Duệ Tông tử trận, quân sĩ chết hai phần còn một, phải mở đường máu mới thoát được.
[25] Sđd:
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh đi đánh Champa. Từ Thăng Long, đại quân ta đi ngót 26 ngày đường biển mới đến đầm Thị Nại. Viên Tổng tư lệnh Chăm là Bố-bì-đà-la dàn trận trên bờ sông Tu Mao (một nhánh của sông Côn). Lý Thường Kiệt đánh tan lực lượng tiền phương và giết được Bố-bì-đà-la, rồi vượt thêm hai sông nữa (cũng thuộc sông Côn) để tới Đồ Bàn. Vua Chăm là Chế Củ (Rudravarman IV) bỏ kinh đô chạy về miền Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo suốt một tháng trời, đến tận biên giới Chân Lạp. Vua Chăm và 5 vạn quân dân bị bắt. Tháng 7 năm ấy, Lý Thánh Tông về đến Thăng Long với ca khúc khải hoàn, giải theo vua Chăm và quyến thuộc. Sau Chế Củ dâng 3 châu: Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh mới được tha cho về nước. Đây là lần đầu tiên đầm Thị Nại có tên trong quân sử Đại Việt.
[26] Sđd:
Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên (洪 德), vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.
[27] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in …, sđd, tr. 469-472.
[28] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in…, sđd, tr. 471-472.