TA NHỚ

Views: 1

(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Trung Tâm (ĐCV) Mằng Lăng: 17/12/1975 – 17/12/2025, xin chia sẻ vài “gợi nhớ”!)

Một thoáng chiều nay về chốn cũ

Mà nghe ta kể chuyện ngày xưa …

Ta nhớ Mằng Lăng ngày tháng ấy,

Mùa Đông lạnh gió cắt nứt da[1].

Sách vở bút nghiên đành xếp xó,

Tương lai giờ hun hút mờ xa!

Ta nhớ mùa Đông đi băm ruộng,

Lạnh tê mình thêm chuyện đỉa đeo[2].

Chắc phải quay lưng về phố thị!

Lời anh em “thôi gắng lên nào!”

Ta nhớ những đêm dài Đồng Cháy,

Nằm nghe kể nữ hiệp “Hoàng Dung”[3].

Mơ được hóa thân chàng “Quách Tỉnh”,

Mà rong chơi thỏa chí tang bồng!

Ta nhớ những lần con nước lụt,

Bềnh bồng tấm lưới với thuyền câu.

Thầy có nhớ không bờ bến cũ?

Để hôm nay trò cứ mãi ưu sầu!

Ta nhớ hoài tô canh rau muống,

Vài củ khoai, trái ổi, trái thơm…

Của bác Trạng, Bà Hai, Bảy Mỹ[4]

Sao mà ngon, thân ái quá chừng!

Ta nhớ con đường đông trơn trượt,

Người thay bò đẩy cộ về kho.

Mồ hôi rơi theo từng hạt lúa,

Xót xa đời hay để ươm mơ!

Ta nhớ đường La Hai, Kỳ Lộ,

Cong mình trên “ngựa sắt” thênh thang[5].

Bên núi, bên sông, rừng xanh thẳm,

Gọi ta đi thác lũ, chim ngàn.

Ta nhớ chiều An Xuân tím ngắt[6],

Gọi nhau tìm hy vọng mong manh.

Trong đất chết gieo mầm sự sống,

Trời hoang mang bỗng thấy yên lành.

Ta nhớ ngày tân hôn thằng Thiết[7]

Ly rượu đường giống chuyện Ca-Na,

Đãi anh em nghìn chung vẫn ít,

Nên bây giờ vạn lý không xa.

Ta nhớ chú Bảy Dương câu cá[8],

Một con thôi mừng thánh Giuse.

Trên chiếc chiếu quây quần dưới đất,

Ấm làm sao tình nghĩa bạn bè!

Ta nhớ thuở bình minh sương lạnh,

Lửa lò đường chưa kịp sáng lên.

Tiếng hét la… bờ kia dậy sóng,

Bắt rồi “tên phản động vang rền”[9]!

Ta nhớ anh em giờ biền biệt,

Tánh, Quyết, Tường[10] cộng khổ đồng cam.

Đã đi qua thiên đường yên nghỉ,

Đừng quên nhau duyên nợ đá vàng.

Ta nhớ Ngân Sơn mùa nước lũ,

Đưa khách sang sông chuyến đò ngang.

May mắn gần bờ con sõng úp[11],

“Ướt còn cháy mất” chuyện ngang tàng.

Ta nhớ trứng gà ông cụ Nhớ,[12]

Đi bộ từ Phú Nhuận xa xôi.

Những ếch vàng của ông Nên Củng,

Quà tặng người nghèo quí biết bao!

Ta nhớ những đêm Hè Hội Tín,

Dưới trăng nghe “kiếm hiệp giang hồ…”.

Giữa bầy con nít ngày xưa đó,

Mấy đứa làm cha có ai ngờ[13].

Ta nhớ lời kinh chung mỗi tối[14],

“Yêu như Thầy Anrê Phú Yên…”

Mai mốt mang kinh về nguồn cội,

Để đọc cùng nhau chốn thiên đình.

Ta nhớ làm sao ta nhớ hết,

Kho chuyện đời trai trẻ miên man.

Để hàn huyên độ đường mỏi mệt,

Như đang nghe lại một cung đàn!

Sơn Ca Linh


[1] Các thầy từ các Trung tâm ĐCV Qui Nhơn về Mằng Lăng vào ngày 17.12.1975. Năm đó mùa Đông rất lạnh. Sau đây là số người lúc buổi đầu thành lập Trung tâm Mằng Lăng: 2 người thuộc Trung tâm Vi NHân (thần học): Giuse Trương Đình Hiền, Phêrô Đinh Ngọc Quyết; 1 người thuộc Trung tâm Long Mỹ (triết học): Giacôbê Hồ Bá Tánh; 2 người thuộc Trung tâm Làng Sông (Tiền ĐCV): Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, Giuse Nguyễn Hữu Tường. Người thứ 6 là chú chủng sinh Gioan Võ Đình Đệ, lúc đó mới mãn lớp 8 TCV Qui Nhơn.

[2] Hồi đó Thầy Bản, tức ĐC Cha Vinh Sơn GM Hải Phòng hôm nay, rất sợ đỉa, nhờ anh em động viên nên quen dần.

[3] Thời gian làm ruộng ở Đồng Cháy, đêm đêm ngủ chung trên nền nhà thờ Đồng Cháy, kể nhau nghe chuyện tiểu thuyết kiếm hiệp “Anh hùng xạ điêu” của Kim Dung mà hai nhân vật chính trong tác phẩm này chính là Quách Tỉnh đại hiệp và Hoàng Dung nữ hiệp.

[4] Tên một số gia đình giáo dân thường giúp đỡ các thầy. Nhờ sự ân cần thương mến đó đã nâng đỡ tinh thần ơn gọi.

[5] Hồi đó, các thầy Mằng Lăng có máy và che ép mía đường, đã đưa lê tận Kỳ Lộ, La Hai để ép mía mướn. Mỗi lần đi về đều chỉ bằng phương tiện xe đạp.

[6] Thầy Bản từng tham gia đi công tác phá rừng làm rẫy ở An Xuân với thanh niên. Thời gian đó vùng nầy rừng còn âm u chướng khí; ban đêm thường có người bị trúng gió. Mỗi lần như thế, các bạn trẻ kêu cứu cùng thầy Bản…

[7] Một giáo lý viên, ca viên rồi chức việc ở Mằng Lăng (đã qua đời). Gia đình có một người con là linh mục Carolo Nguyễn Phan Huy Dũng; hiện làm cha sở giáo xứ Cù Và, Quảng Ngãi.

[8] Một cựu chiến sĩ VNCH, là giáo dân Tân Tòng gốc Bắc 54 ở Mằng Lăng, rất quí mến các thầy. Mỗi dịp Bổn mạng mừng thánh Giuse, chú cầu nguyện xin câu được 1 con cá lóc và lúc nào cũng câu được như ý.

[9] Sự kiện ông Thủ (giáo dân Chợ Mới) bị bắt tại gần bờ đập sông Đồng Cháy.

[10] Thầy Giacôbê Hồ Bá Tánh xuất tu năm 1977. Sau đó bỏ đi biệt tích và nay đã chết. Tiếp theo, thầy Giuse Nguyễn Hữu Tường về nhà vượt biên và mất tích. Thầy Phêrô Đinh Ngọc Quyết xuất về lập gia đình thường trú tại giáo xứ Xóm Thuốc, Sài Gòn, cũng đã qua đời!

[11] Dịp lễ thánh Phanxicô Xavie (3/12), Bổn mạng của cha sở Mằng Lăng, F.X Nguyễn Xuân Văn (+), cha Phêrô Nguyễn Cấp (+), dẫn phái đoàn giáo xứ Đông Mỹ ra mừng lễ. Vì nước lụt, chiều các thầy đưa khách về qua sông Ngân Sơn bằng ghe nhỏ. Thầy Bản chở anh rễ là Công bị chìm sõng khi qua tới bờ bên kia. May mắn mọi người an toàn.

[12] Ông cụ Nhớ (Phú Nhuận), ông Củng Nên (Mằng Lăng, người dân tộc), những người nghèo thường tặng các thầy những món quà thân thương như những cái trứng gà, con ếch…

[13] Cha Tôma Nguyễn Công Binh hiện nay là cha sở Sông Cầu, cha Augustinô Nguyễn Văn Phú hiện là cha sở Gò Găng.

[14] Sau giờ kinh tối, anh em đọc chung lời kinh xin được lòng yêu mến như Thầy giảng Anrê Phú Yên (lúc này ngài chưa được phong Chân phước): “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết yêu mến Chúa một cách khiêm nhường như Thầy Giảng Anrê Phú Yên, lấy tình yêu đáp trả tình yêu, đem mạng sống đáp đền mạng sống mà trung thành với Chúa đến cùng. Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con xin đặt các việc tông đồ của chúng con dưới sự bảo trợ của thầy Anrê. Xin hãy tỏ vinh quang của Ngài mà chúc lành cho công việc chúng con đang làm được thành tựu như Chúa để Chúa được vinh danh hơn. Amen.”