VẾT SẸO CỦA “LÒNG THƯƠNG XÓT” TRÊN PHẬN NGƯỜI

Views: 7

(Chúa nhật II Phục sinh – năm c 2025)

            “Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết”: một câu chuyện, hay đúng hơn, một huyền nhiệm luôn là thách đố cho con người muôn nơi muôn thuở. Chúng ta đừng quên, ở ngay điểm “xuất phát” của Tin mừng này cách đây gần 2000 năm, chính một môn sinh trong “Nhóm Mười Hai của Chúa Giêsu”, Tông Đồ Tôma, đã từng thách thức các bạn đồng môn: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin…” (Ga 20,25). Một sự thách thức rất “thực” và cũng đầy tính “nhân văn”! Bởi vì chuyện “sống chết” là chuyện quan trọng liên quan đến con người bằng xương bằng thịt nên cũng phải được trải nghiệm bằng “mắt thấy tai nghe”, bằng đối diện gặp gỡ… chứ không là một ý thức hệ, một triết lý hoang tưởng!

          Vâng, đằng sau bản tin “Mộ trống” của các trang Tin Mừng, đằng sau câu chuyện nhát gừng “Chúa đã sống lại” của các phụ nữ, đằng sau lời đoan quyết “Tôi đã thấy Chúa” chẳng ai làm chứng của bà Maria Mađalêna, và cả những lời xác nhận “chúng tôi đã thấy Chúa” không mấy xác tín của đám đông Tông Đồ trong “căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái”… phải có một “sự thật vĩ đại”, một “ấn chứng thần linh” chắc chắn, một sự “hiện diện đích thực của một Đấng Quyền năng” là chính “Đấng Phục Sinh”… mới làm cho “chân lý Phục Sinh”, “Tin mừng Phục Sinh”, hay đúng hơn, là Kitô giáo, được thuyết phục, tin yêu, đầy sức sống và hy vọng suốt 2000 năm; không phải cho một nhóm nhỏ mà gần một phần ba nhân loại, những người mang danh Kitô hữu, cho dù thuộc Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành hay Anh giáo!

          Chìa khóa để mở cánh cửa của niềm tin là ở đó: Khi lý trí con người “giơ tay đầu hàng” thì Thiên Chúa đã đến. Liền sau những lời có vẻ nhát gừng của các tông đồ: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”, thì lập tức Chúa hiện ra giữa các ông với lời chúc: “Bình an cho anh em”, như Tin mừng Gioan lược tóm mà chúng ta vừa nghe: Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”.

            Cách riêng, đối với các cộng đoàn Kitô hữu, thì hàng năm, trong dịp mừng đại lễ Phục Sinh này, chúng ta đều được nghe lại bản tin về một loạt những lần hiện ra của Đấng Phục sinh như những ấn chứng cho “bản tin giật gân” của các phụ nữ vào “buổi sáng tinh mơ của Ngày thứ nhất trong tuần”.

            Chính sự hiện diện tỏ tường nầy của Đức Kitô Phục sinh đã “xoay hẳn 180 độ niềm tin của các tông đồ”:

– Từ những con người hoang mang lo sợ trốn chui trốn nhủi như những tội nhân đang bị truy nã…, các ông đã mở tung cửa, ra khỏi nhà, mạnh dạn đi khắp nơi công bố về Tin Mừng Chúa sống lại.

– Từ những kẻ “mặc cảm, đứng bên lề” vì là nạn nhân bị cấm đoán, bị loại trừ, bị đòn vọt và sau nầy bị bắt, bị kết án nhục hình…, các ông đã trở thành những người tự do, can đảm, hiên ngang, sẵn sàng “lấy mạng sống để làm chứng cho sự thật phục sinh”.

          Chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa, chỉ có sức tác động của Chúa Thánh Linh, chỉ có “Bàn tay quyền năng của Đấng Phục sinh chạm tới” mới làm nên việc kỳ diệu như thế, như lời chứng của Thánh Gioan Tông Đồ trong thị kiến tại đảo Pátmô được thuật lại trong BĐ 2 hôm nay: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau nầy”.

          Chính vì thế, chúng ta có thể phát biểu một cách xác tín rằng: chỉ có thể cắt nghĩa, chỉ có thể hiểu huyền nhiệm Phục sinh bằng hai từ “HIỆN DIỆN”. Vâng, Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện!

– Một sự hiện diện làm nên Kitô giáo, một sự hiện diện làm nên lâu đài đức tin.

– Một sự hiện diện làm nền tảng của giáo lý, tâm điểm của mọi cử hành phụng vụ.

– Một sự hiện diện làm kim chỉ nam cho mọi qui luật luân lý và tu đức.

– Một sự hiện diện làm nguồn sống và sức mạnh thiêng liêng cho cuộc đời tại thế.

– Một sự hiện diện lôi kéo con người tiến bước trong niềm hy vọng hạnh phúc vĩnh hằng.

– Một sự hiện diện thuyết phục những kẻ ngoại đạo, vô tín bước vào con đường đức tin.

– Một sự hiện diện có sức hoán cải những tâm hồn tăm tối tội lỗi để vươn mình chỗi dậy bước vào ánh sáng tình yêu và ân sủng …

          Chính vì thế, niềm tin của người Kitô hữu, cuộc sống đích thực của người Kitô hữu chính là sống “sự hiện diện nầy”, như lời định nghĩa của Thánh Phaolô: “Tôi sống đây không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi”.

          Nhưng chúng ta cũng biết rằng: sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô chỉ hiện diện cách hữu hình vỏn vẹn có 40 ngày. Sau đó “Ngài lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, nhường chỗ cho một sự “hiện diện mới”, một Đức Kitô phục sinh vô hình nối dài trong lịch sử, mà theo ngôn ngữ thần học của Thánh Phaolô, đó chính là “Thân Thể huyền nhiệm của Ngài”, là Hội Thánh dưới sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần.

          Quả thật, ngôn ngữ Phụng vụ hay Lời Chúa hôm nay, cho dù âm vang những tên gọi khác nhau như “Cộng đoàn”, “Tông đồ”, “Tín hữu, “Nhóm Mười Hai”…, thì tất cả đều qui chiếu về một điều duy nhất: “một cộng đoàn đang làm chứng về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh”, một cộng đoàn đang nỗ lực làm chứng rằng: tất cả những ai “đồng tâm nhất trí” dưới “bóng mát Phêrô” đều sẽ được phục hồi trong Vương quốc sự sống: Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. (Bđ 1).

          Một cộng đoàn Hội Thánh nào không phản ảnh sự “hiệp thông nền tảng” này sẽ không bao giờ có Đức Kitô phục sinh hiện diện. Chính vì thế, những bài học căn bản mà Hội Thánh phải học triền miên đó chính là hiệp nhất, yêu thương, sẻ chia, Thánh Thể, phục vụ, truyền giáo… Khi nào người Kitô hữu lìa xa Hội Thánh, tách rời cộng đoàn để “xé lẽ ăn riêng” sẽ rơi vào nguy cơ “cứng lòng, vô tín như Tôma”.

          Cũng vậy, khi nào cộng đoàn Hội Thánh vẫn còn sống trong sự nhát sợ, cục bộ, ích kỷ  “đóng cửa kín bưng” để xa rời anh em đồng loại, sẽ có nguy cơ làm xơ cứng cũ mòn lời chứng về sự phục sinh và sẽ không thuyết phục được con người hôm nay tin vào việc Chúa sống lại. Hội Thánh phải mạnh mẽ “đi ra” như niềm xác tín của đức cố Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui của Tin mừng: “Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục.” (EG 49).

          Sau hết, chúng ta đừng quên, Đức Kitô không hề che giấu những “vết sẹo thương khó” trên thân thể phục sinh của Ngài; đó chính là dấu chỉ sống động cụ thể của “lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa”; không chỉ dành riêng cho “Tôma chạm đến” để được “ơn chữa lành” mà cho tất cả những phận người mang hình ảnh của “Đức Kitô loang lổ vết sẹo” của đói nghèo, bị áp bức, bệnh tật, tù đày, thương tích… trên muôn nẻo đường thế giới… Dĩ nhiên, trong đó có cả mỗi người chúng ta; vì không ai mang danh Kitô hữu mà lại không cần “Vết sẹo của Lòng Thương xót” của Thiên Chúa chạm đến!

Giuse Trương Đình Hiền