Views: 52
Đọc Gaudete et Exsultate trong bối cảnh của Tân Ước
Lm. Paulus Ý
Trong thời đại chúng ta đang xuất hiện một vài khuynh hướng mỗi lúc một mạnh và rõ ràng, ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của từng cá nhân cũng như có thể gây tổn thương cho sự hợp nhất của cộng đoàn tín hữu. Các khuynh hướng này muốn nhìn đức tin và đời sống Kitô giáo theo hai cực bảo thủ và cấp tiến, hữu khuynh và tả khuynh, giống như trong các thực thể và chủ trương của đảng phái chính trị.[1] Các khuynh hướng “chính trị hoá” đời sống đức tin và thực hành Kitô giáo này nếu không được cảnh báo sẽ làm lệch lạc đức tin và dẫn nền tu đức Kitô giáo đi về các hướng quá khích, đồng hoá Phúc Âm với một loại ý thức hệ nào đó
Thực vậy, để đối đầu lại cách suy nghĩ và sống tháo thứ buông thả không để ý đến các giá trị luân lý của con người và xã hội hiện đại, một số Kitô hữu đã cố gắng nhấn mạnh và đề cao một số giá trị luân lý đạo đức Kitô giáo, nhưng khi làm vậy họ lại để mình bị thu gọn vào một số lý thuyết hay thực hành nhất định và bỏ quên toàn cảnh con đường nên thánh của Tin Mừng. Đức Kitô đã đến không phải chỉ để rao giảng cho con người một số chân lý nhất định nào về luân lý, áp đặt các định chế kỷ luật hay mạc khải một số tín điều siêu nhiên nào. Ngài đã đến để con người “được sống và sống dồi dào hơn” (Ga 10,10). Ngài đã đến để là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,16) cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài trên con đường cứu độ.
-
-
- Linh Đạo Kitô Giáo Là Chính Đức Kitô
-
Hơn ai hết, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận diện các khuynh hướng nguy hiểm có thể dẫn con người trở về những sai lầm của các lạc giáo trong quá khứ cũng như diễn tả sai lệch khuôn mặt của Giáo Hội trong thế giới hiện tại. Từ những ngày đầu trong sứ vụ Mục Tử của Giáo Hội hoàn vũ ngài đã gởi đi Tông Huấn có tên Evangelii Gaudium – Niềm Vui của Phúc Âm, để chấn chỉnh các phương cách truyền giáo nhằm hướng đến việc giới thiệu niềm vui thực sự mà sứ điệp Phúc Âm muốn mang đến cho toàn thể nhân loại. Ngày 13.03.2018 nhân dịp kỷ niệm năm năm ngày bắt đầu sứ vụ của Phêrô, Đức Thánh Cha đã ban hành Tông Huấn mới lấy tên Gaudete et Exsulate – Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ[2] – với phụ đề là “về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay”.
Để phục hồi lại chiều kích toàn bích của Phúc Âm cũng như vẻ đẹp muôn màu của ơn gọi nên thánh trong Kitô giáo, Đức Thánh Cha đã giúp các Kitô hữu nhận diện điều mà ngài gọi là “hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện” là ngộ đạo thuyết (gnosticism) và thuyết pêlagiô (pelagianism). Theo Đức Thánh Cha đây là
hai lạc thuyết từ những thuở ban đầu Kitô giáo, nhưng chúng vẫn tiếp tục hoành hành nơi chúng ta. Cả trong thời chúng ta, nhiều Kitô hữu – có lẽ một cách không ý thức – có thể bị lôi cuốn bởi những ý tưởng lừa dối này, vốn phản ảnh một nội tại thuyết qui nhân trong cái lốt như là chân lý Công giáo. Chúng ta hãy xem xét hai dạng bảo đảm mang tính giáo thuyết hay qui phạm này, vốn làm nổi lên “một tầng lớp ưu tú độc đoán và tự yêu, trong đó thay vì loan báo Tin Mừng, thì người ta phân tích và xếp loại những người khác, và thay vì mở rộng cửa cho ân sủng, người ta lại vắt cạn năng lực mình trong việc thẩm tra và xác minh. Trong cả hai trường hợp, người ta đều không thực sự quan tâm đến Đức Giêsu Kitô và tha nhân (GE 35).
Khi cảnh báo những bộ mặt mới của hai lạc thuyết này trong đời sống Giáo Hội hiện đại, Đức Thánh Cha muốn qui chiếu và đưa tất cả các linh đạo trở về lại với Đức Kitô. Chính cuộc hiện sinh, những hành động và giáo huấn của Ngôi Lời Nhập Thể là nền tảng cho ơn gọi nên thánh của người tín hữu Kitô. Khi Người Con “vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” (Ga 1,18), đã chấp nhận “hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7), sống một cuộc sống hết sức bình thường như bao người, thì Ngài được gọi “là con ông Giuse” (Lc 3,23). Phúc Âm cho chúng ta biết những người đương thời đã học biết lý lịch và gốc gác trần thế của Đức Kitô như thế nào. Họ đã tự hỏi nhau khi Ngài trở về làng quê Nazarét của mình sau khi đã bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng:
Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria; anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Giuse, Simôn và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế? (Mt 13,55-56; x. Mc 6,1-6; Lc 4,16-30).
Thực vậy căn tính trần thế “con ông Giuse” hay “con bác thợ” đã được thành hình và lưu lại trong ký ức của người đương thời từ những năm tháng dài Đức Kitô chung sống với Đức Maria và Thánh Giuse tại Nazarét. Nhưng Kinh Thánh Tân Ước dường như đã không cho chúng ta một tường thuật rõ ràng nào về khoảng thời gian rất dài so với của cuộc đời chỉ có 33 năm[3]trên trần thế của Đức Kitô. Trong bốn Thánh Sử, duy nhất chỉ có thánh Luca mà truyền thống hiểu là một “sử gia” kể lại cho chúng ta một sự kiện duy nhất trong suốt cuộc sống 30 năm này của Đấng Cứu Thế, đó là gia đình Nazarét “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” khi Đức Giêsu “được mười hai tuổi” (Lc 2,41.42).
Sau biến cố này, Kinh Thánh Tân Ước lại thinh lặng hoàn toàn về những năm tháng Nazarét mãi cho đến biến cố “Đức Giêsu khởi sự rao giảng”, và cũng chỉ một mình thánh Luca ghi lại, khi “Người trạc ba mươi tuổi…”(Lc 3,23). Thực ra các tác giả Phúc Âm cũng như toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước không có ý tạo nên một sự đứt quảng nào giữa những năm tháng ẩn dật tại Nazarét và ba năm rao giảng công khai trong đời sống trần thế của Đức Kitô. Toàn thể cuộc hiện sinh của Đức Giêsu, từ khi nhập thể cho đến khi nói lời hoàn tất trên thập giá đều có một giá trị cứu độ đồng nhất cho nhân loại, như tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đã suy niệm và diễn tả:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con (Dt 10,5-7).
Thực vậy Con Thiên Chúa đã dùng khoảng thời gian dài này trong cuộc đời dương thế của Ngài để chia sẻ thân phận của đại đa số nhân loại; một cuộc sống hằng ngày với tất cả chiều kích đôi khi tầm thường và nặng nề của nó, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống tuân thủ lề luật của Do Thái giáo trong cộng đoàn địa phương của Ngài (x. Lc 4,18). Nhưng cuộc luyện tập chính của đời sống Nazarét là đức vâng phục. Là Ađam mới, sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà Ađam cũ đã phá huỷ vì bất tuân (x. Rm 5,19). Để nói lên lời xin vâng dứt khoát với ý định của Thiên Chúa Cha trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,36-46; Mc 14,32-42; Lc 22,39-46) trước khi đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã luyện tập đức vâng phục đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người suốt những năm tháng dài tại miền quê Nazarét. Thánh sử Luca đã kết luận câu chuyện lạc mất và tìm thấy tại Giêrusalem với việc Đức Giêsu đã
đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (Lc 2,51-52).
Cho dầu không tường thuật chi tiết những gì Đức Giêsu đã trải qua và cảm nghiệm trong thân phận làm người tại làng quê Nazarét, Kinh Thánh Tân Ước đã xác định rằng chấp nhận chén đắng khổ nạn và cứu chuộc nhân loại bằng cái chết đớn đau trên Thập Giá là kết quả của một tập luyện liên lỉ cùng với những lời cầu xin tha thiết trải dài suốt tất cả những tháng năm trần thế của Con Thiên Chúa Làm Người:
Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người… (Dt 5,7-9).
Chính qua cuộc sống thường nhật và ẩn dật ba mươi năm để trưởng thành và lớn lên trong “ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52), Đức Kitô đã mở ra con đường nên thánh phổ quát khả thể cho mọi tín hữu Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong lần viếng thăm ngôi nhà Nazarét năm 1964[4] đã viết những lời thật thâm trầm về linh đạo của đời sống thường nhật và bình lặng này:
Ngôi nhà Nazarét là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nazarét dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazarét, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ.[5]
Trong Tông Huấn Gaudete et Exsultet, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp tục dòng suy tư này của Chân Phước Phaolô VI[6] để nhắc nhở mọi Kitô hữu sự thánh thiện trước hết và trên hết là kết hợp với Đức Kitô, vì sự thánh thiện Kitô giáo chính là việc
tái lập trong đời sống chúng ta những khía cạnh khác nhau trong cuộc đời dương thế của Đức Giêsu: đời sống ẩn dật của Người, đời sống của Người trong cộng đồng, sự gần gũi của Người với những người tội lỗi, sự nghèo khó của Người, và những cách khác nữa qua đó Người diễn tả tình yêu quên mình… Vì mọi sự nơi cuộc đời Đức Giêsu đều là một dấu hiệu diễn tả mầu nhiệm của Người, nên toàn thể đời sống Đức Kitô là một mặc khải về Chúa Cha, toàn thể đời sống Đức Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc, toàn thể đời sống Đức Kitô là một mầu nhiệm thu họp. Đức Kitô giúp ta sống trong Người tất cả những gì chính Người đã sống, và Người sống những điều ấy trong ta (GE 20).
Tông Huấn như vậy được xem là một lời khẳng định rằng tất cả chương trình thánh hoá của Chúa Cha là chính Đức Kitô. Qua Đức Kitô, Chúa Cha đã nói lời yêu thương tuyệt đối và cuối cùng với nhân loại. Mỗi người Kitô hữu là một sự nối dài của tình yêu thương này cho thế giới; nói cách khác chính Đức Kitô đang yêu thương nhân loại qua chúng ta. Thánh thiện Kitô giáo không gì khác hơn là tình yêu của Đức Kitô được sống viên mãn. Sự thánh thiện của mỗi Kitô hữu được xác định bởi mức độ mỗi người để cho Đức Kitô chiếm lĩnh qua sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần. Trong cái nhìn này thì “mỗi vị thánh là một thông điệp mà Chúa Thánh Thần rút từ kho tàng của Đức Giêsu Kitô và trao cho dân của Người” (GE 21).
-
-
- Chiều Kích Phổ Quát Của Ơn Gọi Nên Thánh Kitô Giáo
-
Khi tái khẳng định Đức Kitô là chính nền tảng của ơn gọi nên thánh, Tông Huấn Gaudete et Exsultet muốn gởi đến toàn thể Dân Chúa lời mời gọi nên thánh mang chiều kích phổ quát hiện hữu trong căn tính của mỗi một Kitô hữu. Mọi Kitô hữu dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo của Phúc Âm.[7] Ơn gọi nên thánh không phải chỉ giới hạn cho những ai mang chức thánh hay sống đời thánh hiến, Tông Huấn khẳng định:
Để nên thánh, không cần phải trở thành giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút khỏi các công việc hằng ngày để dành nhiều thời gian cho việc cầu nguyện. Điều đó không đúng. Tất cả chúng ta được gọi nên thánh bằng việc sống đời sống mình với yêu thương và bằng việc làm chứng trong tất cả những gì mình làm, bất cứ nơi nào mình hiện diện. Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Bạn kết hôn? Hãy nên thánh bằng việc yêu thương và chăm sóc vợ hay chồng của bạn, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc Hội Thánh. Bạn đang làm việc kiếm sống? Hãy nên thánh bằng cách làm việc với hết khả năng và sự liêm chính để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hay ông bà trong nhà? Hãy nên thánh bằng việc nhẫn nại dạy bảo con cháu mình biết đi theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở vị trí nắm giữ quyền bính? Hãy nên thánh bằng cách làm việc phục vụ cho công ích và nói không với việc trục lợi riêng tư (GE 14).
Ngay trong phần mở đầu Đức Thánh Cha đã giới thiệu Tông Huấn như “lời mời gọi nên thánh bằng một cách thực tiễn cho thời đại chúng ta, với tất cả những nguy hiểm, những thách đố và những cơ hội của nó” (GE 2). Lời mời gọi của Đức Thánh Cha bắt nguồn từ một bức tranh hết sức đẹp đẽ được Tân Ước phát hoạ lên cho tất cả những ai muốn dấn bước trên con đường nên thánh:
… phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa… (Dt 12,1)
Bức tranh đầy khích lệ này của Thư Do Thái đã được tô đậm nét trong Sách Khải Huyền “khi nói về sự chuyển cầu của các chứng nhân tuẫn đạo” (GE 3, x. Kh 6,9-10). Thật vậy hình ảnh của Giáo Hội Khải Hoàn mà Sách Khải Huyền phác hoạ phải đủ sức để phấn chấn cộng đoàn Kitô hữu là “đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” dõi bước theo Đức Kitô là Đấng “chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,9.17). Khi dùng hình ảnh đánh động này của Kinh Thánh để giáo đầu cho Tông Huấn, Đức Thánh Cha đã muốn gởi đi một sứ điệp thật vững chắc là nhắc nhớ các tín hữu của thời đại rằng các thánh không phải chỉ được nhìn thấy nơi các vị được tuyên phong chân phúc hay được đưa lên bàn thờ của Giáo Hội. Ơn gọi nên thánh trước hết và trên hết là hoạt động của Thánh Thần để trao ban sự thánh thiện dồi dào cho toàn thể Dân Thánh bao gồm những người đã được chọn gọi giữa lòng thế giới và trong dòng lịch sử của nhân loại. Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội đã xác minh rằng “Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ chẳng chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện” (LG 9).[8] Như vậy chiều kích phổ quát của giáo hội học, chiều kích cộng đoàn của ơn gọi nên thánh đã được Đức Thánh Cha nhấn mạnh ngay từ đầu. Ngài đã rất thẳng thắn khi khẳng định rằng:
Chúng ta không bao giờ là chính mình cách hoàn toàn trừ phi chúng ta thuộc về một dân. Vì thế không ai được cứu độ một mình, như một cá thể tách rời. Đúng hơn, Thiên Chúa kéo chúng ta đến với Ngài, trong chính mạng lưới tương quan liên vị phức hợp tồn tại trong một cộng đoàn nhân loại… (GE 6).
Mục đích của việc đề cao chiều kích cộng đồng và tính liên đới của ơn gọi nên thánh trong Kitô giáo là Đức Thánh Cha muốn giúp các tín hữu nhận diện ra sự thánh thiện ở ngay bên họ, hay nói cách khác ngài muốn giúp chúng ta nhận ra các thánh trong đời sống hàng ngày. Ngài đã không ngại ngùng chia sẻ chính kinh nghiệm cá nhân, khi ngài đã dùng con mắt thiêng liêng của mình để nhìn thấy vẻ đẹp muôn màu của ơn gọi nên thánh trong đời sống của các tín hữu Kitô. Đức Thánh Cha chia sẻ:
Tôi thích chiêm ngắm nét thánh thiện nơi sự kiên nhẫn của dân Thiên Chúa: nơi những người cha người mẹ nuôi con với tình yêu bao la, nơi những người nam nữ làm việc vất vả để lo cho gia đình, nơi những tu sĩ già yếu không bao giờ đánh mất nụ cười. Trong sự kiên trung của họ tôi nhìn thấy tính thánh thiện của Giáo hội chiến đấu. Rất thường, đó là một sự thánh thiện được gặp thấy nơi những con người ngay bên chúng ta, những người sống giữa chúng ta và phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa… (GE 7).
Lời nhắc nhở rằng các thánh luôn đồng hành và kề cận bên chúng ta của Đức Giáo Hoàng giúp chúng ta nhận ra các dấu hiệu của sự thánh thiện mà Chúa cho thấy qua những thành viên khiêm hạ nhất đã được tháp nhập Giáo Hội, Nhiệm Thể của Đức Kitô qua bí tích rửa tội. Cùng với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha cũng đã nhắc đến chiều kích đại kết của ơn gọi nên thánh, mà các nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã khẳng định,[9] khi nói rằng “ngay cả bên ngoài Giáo hội Công giáo và trong những bối cảnh rất khác, Chúa Thánh Thần vẫn khơi lên những dấu hiệu sự hiện diện của Ngài để giúp đỡ các môn đệ Đức Kitô” (GE 8).
Có thể nói được Đức Giáo Hoàng Phanxicô là vị giáo hoàng đầu tiên trong thời đại chúng ta đã không tham dự Công Đồng Vatican II.[10] Tuy nhiên ngay từ khi nhận nhiệm vụ làm mục tử hoàn vũ, ngài đã xác nhận con đường canh tân trở về nguồn[11] của Công Đồng Vatican II là con đường chính thức trên đó Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn Giáo Hội hôm nay. Tất cả các giáo huấn của ngài dưới mọi hình thức đều phản ảnh trung thực tinh thần và đường hướng Công Đồng Vatican II. Đặc biệt lời mời gọi nên thánh trong Tông Huấn Gaudete et Exsultet có thể xem là lời khẳng định mạnh mẽ nhất giáo huấn của Vatican về con đường nên thánh chung của ơn gọi Kitô hữu. Đức Thánh Cha đã trưng dẫn giáo huấn của Thánh Công Đồng Chung Vatican II trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội số 11[12] và cho chúng ta lời giải thích sâu sắc của ngài:
Công đồng nói “mỗi người mỗi cách”. Chúng ta không nên nản chí trước những mẫu gương thánh thiện dường như mình không thể đạt tới được. Có một số chứng tá có thể thực sự hữu ích và truyền cảm hứng, nhưng không phải để chúng ta sao chép, vì điều đó có thể đưa ta đi lạc khỏi nẻo đường riêng mà Chúa có ý dành cho ta. Điều quan trọng là mỗi tín hữu phân định nẻo đường riêng của mình, để thể hiện chính mình cách tốt nhất, tức những ân sủng riêng tư nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn họ (x. 1Cr 12,7), thay vì cố gắng cách vô vọng để bắt chước một cái gì đó chẳng dành cho mình. Tất cả chúng ta được gọi trở thành những chứng nhân, nhưng có nhiều cách thực tế để làm chứng. Thật vậy, khi Thánh Gioan Thánh Giá, nhà thần bí vĩ đại, viết Khúc Linh Ca, ngài đã muốn tránh đặt những qui tắc rập khuôn cho mọi người. Ngài giải thích rằng những khúc thơ của ngài được viết ra để người ta có thể vận dụng “mỗi người mỗi cách”. Vì sự sống của Thiên Chúa được chuyển thông “cho người ta theo cách này hoặc cách khác” (GE 11).[13]
Tóm lại, lời mời gọi trở thành “muối cho đời” và “ánh sáng cho thế gian” (Mt 5,13.14) hướng đến mọi Kitô hữu ở tất cả mọi đấng bậc. Không ai có quyền giới hạn sự thánh thiện của Phúc Âm cũng như sự cao trọng của ơn gọi nên thánh, nhưng cũng đừng Kitô hữu nào sợ nên thánh, vì sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui, nhưng giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của mình. Đức Thánh Cha đã kết luận rằng khi mỗi một “Kitô hữu lớn lên trong sự thánh thiện, người ấy sẽ sinh hoa trái nhiều hơn cho thế giới” (GE 33). Tóm lại, sẽ không quá đáng khi chúng ta cho rằng Tông Huấn Gaudete et Exsultate chính là một sự quảng diễn và đào sâu giáo huấn về con đường nên thánh phổ quát mà Công Đồng Vatican II đã mở ra trong Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội:
Thế nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn: “chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Thánh Tẩy” (Eph 4,5), cùng chung một phẩm giá của những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia… Vì thế, tuy trong Giáo Hội, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa (x. 2P 1,1). Mặc dù theo ý Chúa Kitô, có những người được chọn làm tiến sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có sự bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô. Thực vậy, nếu Chúa phân biệt những thừa tác viên có chức thánh với các thành phần khác của Dân Thiên Chúa thì sự phân chia này vẫn hàm chứa một sự hiệp nhất, vì chủ chăn và các tín hữu khác liên kết với nhau do những mối dây liên hệ chung. Các chủ chăn trong Giáo Hội noi gương Chúa phải phục vụ lẫn nhau và phục vụ các tín hữu khác; phần các tín hữu phải sẵn lòng hợp tác với các chủ chăn và những người giảng dạy. Như thế, tuy khác biệt nhau, nhưng tất cả đều làm chứng sự duy nhất kỳ diệu trong Thân Thể Chúa Kitô. Thực vậy, chính sự khác biệt về ân huệ, chức vụ và hoạt động lại là mối dây kết hợp con cái Thiên Chúa làm một… Vì thế, nhờ lòng ưu ái của Thiên Chúa, giáo dân được làm em Chúa Kitô, Ðấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, dù Người là Chúa tể muôn loài (x. Mt 20,28). Cũng vậy, họ làm em những người đã lãnh nhận chức vụ thánh, những kẻ đang lấy quyền Chúa Kitô mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản để chăn dắt gia đình Chúa, hầu mọi người chu toàn giới luật mới là luật bác ái. Thánh Augustinô đã dùng những lời tuyệt diệu này để nói lên điều đó: “Làm Giám Mục cho anh em, tôi rất sợ; là tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Giám Mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám Mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là danh hiệu đem ơn cứu độ” (LG 32).
-
-
- Nét Độc Sáng Của Sự Hoàn Thiện Kitô Giáo
-
Trong Phúc Âm nói riêng và trong toàn bộ Tân Ước nói chung luôn có một sự phân biệt tận căn giữa con đường hoàn thiện Đức Kitô mở ra và các linh đạo đương thời. Đứng trước ơn cứu độ và con đường nên thánh được mạc khải trong Đức Kitô[14] đòi buộc tất cả mọi người phải chọn lựa và thích ứng bất kể họ đang thuộc về một trường phái đức tin hay linh đạo nào.[15]Đức Kitô đã nói về những người tin vào sự khôn ngoan và các dấu lạ của Cựu Ước nhưng từ chối chấp nhận Ngài:
Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn; mà đây thì còn hơn vua Salômôn nữa. Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa (Lc 11,31-32).
Thật vậy, ơn cứu độ trong Đức Kitô đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11,23). Chính đòi hỏi tuyệt đối này của Đức Kitô đã làm Ngài trở nên “dấu hiệu cho người đời chống bán” và là “duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên” (Lc 2,34). Thật vậy, Phúc Âm cho chúng ta biết các luật sĩ và phái Pharisiêu, những người “ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy” (Mt 23,1) là những người đầu tiên vấp ngã trước mạc khải cứu độ trong Đức Kitô. Khi họ không để cho lời rao giảng “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15) biến đổi nội tâm, Đức Kitô đã lên án họ là những kẻ “bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,28). Khi họ bắt bẻ Ngài và các môn đệ (x. Lc 11,37-39; Mt 15,1-8; Mc 7,1-13), Ngài gọi họ là “những người dẫn đường mù quáng” (Mt 23,16) vì họ giải thích và sử dụng các lề luật và giáo huấn của Cựu Ước theo những lý tưởng đóng khung của riêng họ. Phê bình cách ăn chay, bố thí và cầu nguyện không đúng mà chính họ thực hành hay dạy kẻ khác làm (x. Mt 6,1-6.16-18) Đức Kitô cho rằng họ “đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết” và Nước Trời họ “đã không vào, mà những kẻ muốn vào” họ “lại ngăn cản” (Lc 11,52). Chính những khác biệt và đối đầu này đã dẫn đến việc những người đứng đầu các trường phái đạo đức của Do Thái giáo dùng Lề Luật của Môsê để lên án Con Thiên Chúa: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19,7).
Ảnh hưởng và sự nối dài của các chủ trương “duy lề luật”, “duy truyền thống” mà thánh Phaolô gọi là “Tin Mừng khác” (Gl 1,6) vẫn tiếp tục đồng hành với Kitô giáo ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Công Đồng đầu tiên được nhóm họp tại Giêrusalem khoảng năm 50 AD cũng đã không hoàn toàn thành công để đưa sự hoàn thiện của Phúc Âm ra khỏi những ràng buộc xưa cũ mà thánh Phêrô phát biểu trong Công Đồng Giêrusalem gọi là “cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi” (Cv 15,10). Bằng chứng là thánh Phaolô khoảng năm 58 AD, tức hơn tám năm sau Công Đồng Giêrusalem vẫn còn phải cảnh cáo giáo đoàn Galát:
Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân sủng của Đức Kitô, để theo một Tin Mừng khác. Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô đó thôi. Nhưng nếu có ai, kể cả chúng tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ ấy đi! (Gl 1,6-8).
Thánh Phaolô nói đến những người vẫn còn tiếp tục bảo vệ phép cắt bì cũng như các thực hành đạo đức khác của Do Thái giáo và tìm cách tiếp tục xâm nhập để áp đặt các thực hành này vào Kitô giáo. Thánh Phaolô lên án những người này, gọi họ là những kẻ giả danh giả nghĩa len lỏi vào để xâm phạm sự tự do đích thực của các tín hữu trong Đức Kitô Giêsu và biến các tín hữu trở thành nô lệ cho lề luật. Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã quả quyết kết luận:
Những ai muốn nở mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải chịu cắt bì, chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô. Thật vậy, chính những kẻ được cắt bì cũng không giữ Lề Luật, nhưng họ muốn anh em phải cắt bì để tìm được nơi thân xác anh em, một lý do hãnh diện. Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới (Gl 6,12-15).
Tuy nhiên sự đối đầu giữa các con đường hoàn thiện khác với ơn gọi nên thánh trong Đức Kitô vẫn chưa chấm dứt. Để tin rằng ơn thánh hoá đến từ “ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu (Rm 3,24) vẫn còn tiếp tục là một vấn nạn cho con người suốt dòng lịch sử Kitô giáo. Tông Huấn Gaudete et Exsultate như đã đề cập là một nỗ lực để chấn chỉnh các suy nghĩ và thực hành đạo đức sai lạc trong thời đại chúng ta. Sai lầm căn bản của các khuynh hướng hay chủ trương hiện đại là biến lý tưởng nên thánh thành một ý thức hệ độc đoán khép kín. Khi làm như vậy, theo Đức Thánh Cha, họ đưa con người đến với “Thiên Chúa mà không có Đức Kitô, một Đức Kitô mà không có Giáo hội, và một Giáo hội mà không có dân chúng của mình” (GE 37). Đó không còn phải là con đường nên thánh Kitô giáo. Và khi đề cao quá đáng sự hiểu biết hay một kinh nghiệm thiêng liêng nào đó, các “linh đạo” này trở thành ảo tưởng khi cho rằng con người có thể đắc thủ các mầu nhiệm cho dù đó là mầu nhiệm Thiên Chúa và ân sủng Ngài. Đức Giáo Hoàng rất thẳng thắn xác định:
Khi một ai đó có câu trả lời cho mọi vấn đề, thì đó là dấu hiệu rằng họ không đang ở trên con đường đúng đắn. Có thể họ là những tiên tri giả, những người sử dụng tôn giáo cho các mục đích của riêng mình, để quảng bá những lý thuyết về tri thức hay về tâm lý của mình. Thiên Chúa siêu vượt vô cùng trên chúng ta; Ngài đầy những bất ngờ. Chúng ta không phải là người xác định khi nào và bằng cách nào mình sẽ gặp gỡ Ngài; thời điểm và nơi chốn chính xác của cuộc gặp gỡ ấy không thuộc quyền định đoạt của chúng ta. Hễ ai muốn rằng mọi sự đều rõ ràng và chắc chắn, thì người ấy đang cho rằng mình kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa (GE 41).
Đây là một lời cảnh tĩnh cho toàn thể Dân Chúa, nhưng đặc biệt hướng đến những người có nhiệm vụ lãnh đạo và dạy dỗ trong Giáo Hội.[16] “Kiểm soát sự siêu việt của Thiên Chúa” là một khuynh hướng hay hành động, trong rất nhiều trường hợp đã không thiếu vắng trong đời sống của người tín hữu hay của cộng đoàn đức tin.[17] Nếu để mình đóng khung trong các quan niệm cứng nhắc về sự hiện diện cũng như hoạt động và ân sủng của Thiên Chúa, con người rất dễ rơi vào trạng thái chán nản bỏ cuộc khi đối diện với sự yếu đuối cũng như bất nhất của mình và đồng loại trước các đòi hỏi của ơn gọi nên thánh. Đối với những ai có nhiệm vụ hướng dẫn hay giáo huấn thì sự lệch lạc này sẽ dẫn đến việc dễ dàng lên án hoặc loại trừ cách võ đoán những người đã không may mắn trong nỗ lực nên thánh hay đã không thủ đắc các giá trị luân lý đòi buộc trong đời sống. Đức Thánh Cha nhắc nhở dân Chúa, đặc biệt các mục tử là chúng ta không thể quả quyết được
Thiên Chúa không ở đâu, bởi vì Thiên Chúa hiện diện một cách mầu nhiệm trong đời sống của mọi con người, theo cách thế mà chính Ngài chọn lựa, và chúng ta không thể loại bỏ điều này bằng những sự chắc chắn mà mình giả định. Ngay cả khi đời sống của ai đó có vẻ hoàn toàn hư hỏng, ngay cả khi chúng ta thấy nó bị hủy hoại bởi những đồi bại hay nghiện ngập, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện ở đó. Nếu chúng ta muốn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần chứ không phải bởi những định kiến của mình, thì chúng ta có thể và phải cố gắng tìm thấy Chúa trong mọi đời sống con người… (GE 42 – đánh dấu chữ nghiêng đậm của người viết).
Điều Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập và nhắc nhở ở đây rất quan trọng. Tín hữu tin và tuyên xưng nơi nào Chúa hiện hữu, nhưng không ai có quyền và có khả năng để chỉ ra nơi nào Chúakhông hiện diện. Là Kitô hữu chúng ta tin và tuyên xưng Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi. Niềm tin này xem ra đơn thuần đối với mọi tín hữu. Có lẽ không ai sống trong Giáo Hội nghi ngờ sự toàn năng toàn hữu của Chúa. Cũng không có một lạc giáo nào trong lịch sử đã chối bỏ Thiên Chúa Đấng Tạo Thành cũng là Đấng Quan Phòng. Tuy nhiên trong thực tế lý trí cũng như tâm lý của con người hoạt động cách tự nhiên thường tạo ra trong tâm trí con người những quan niệm vô thức khác cho rằng nếu Chúa hiện diện ở những nơi này thì không thể có ở những nơi kia! Chúng ta đến thờ lạy Chúa nơi các nhà thờ Công Giáo không đồng nghĩa với việc chúng ta phải chối bỏ sự hiện diện của Chúa trong cách thế Ngài muốn ở các nguyện đường của các anh em Tin Lành, hay ở các nơi phụng tự của các tôn giáo khác. Tin Chúa hiện diện trong Giáo Hội nhưng không tin Chúa có thể hiện diện và hoạt động ngoài Giáo Hội, trong thế giới và vũ trụ cũng do Ngài tạo dựng, chúng ta không thực sự tin Chúa toàn năng, toàn hữu, hay nói cách khác là chúng ta một cách nào đó “không cho phép” Chúa được hiện diện và hoạt động ở nơi Ngài muốn.
Tông Huấn nói lên điểm này để củng cố sự kiên nhẫn trên con đường nên thánh cho mọi người. Kitô hữu là người tin rằng Thiên Chúa là Đấng Siêu Vượt trên tất cả, không một khuôn mẫu hay lý tưởng thánh thiện nào có thể chứa đựng và tát cạn được sự thánh thiện vô biên của Ngài, cũng như không có một bóng tối của sự dữ hay tội lỗi nào có thể vĩnh viễn và tuyệt đối ngăn cản ánh sáng của sự hiện hữu nhân từ và luôn đổi mới của Đấng “yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3,16). Các chủ chăn khi xác tín đièu này sẽ sửa đổi cách suy nghĩ tự nhiên và uốn nắn những luận lý nhân loại của mình theo cách lý luận của Đấng “để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15,4). Điều này khuyến khích các chủ chăn đi tìm hạt giống của ơn thánh mà Thánh Thần gieo vãi ở mọi cảnh trạng cuộc sống, ngay cả ở những nơi xem ra không còn hy vọng hay ánh sáng. Chỉ có Thánh Thần mới có thể soi dẫn chúng ta dõi theo sự thánh thiện qua khuôn mặt của Đức Kitô.
Thực vậy, các mục tử phải cố gắng để thanh luyện cách suy nghĩ của riêng mình để có thể cổ võ và hướng dẫn những cách thế nên thánh khác nhau trong cộng đoàn đức tin của mình. Đừng vì quá “ngăn nắp” hay sợ tình trạng “lộn xộn” mà giới hạn hay ngăn cản những gì mới lạ mà chính mình cũng chưa đủ kinh nghiệm và kiến thức. Những lời này của Tông Huấn gần như trực tiếp hướng đến các chủ chăn:
Không dễ để nắm hiểu sự thật mà chúng ta đã nhận từ Chúa. Và càng khó diễn đạt nó. Vì thế chúng ta không thể cho rằng cách mình hiểu sự thật nào đó sẽ trao cho mình cái quyền thực thi một sự giám sát nghiêm ngặt trên đời sống của những người khác trong Giáo hội vẫn hợp pháp tồn tại những cách khác nhau để diễn dịch nhiều khía cạnh của giáo lý và đời sống Kitô giáo; trong sự đa dạng của mình, chúng “giúp diễn tả rõ hơn sự phong phú vô cùng của lời Thiên Chúa”. Quả thật đối với những ai mong muốn có một bộ giáo thuyết nguyên khối cứng nhắc được tuân thủ bởi mọi người và không chừa chỗ nào cho sắc thái tinh tế, thì điều này sẽ có vẻ làm họ dị ứng và dẫn tới lộn xộn… Thật vậy, một số trào lưu ngộ đạo thuyết đã xem thường tính mộc mạc đơn giản của Tin Mừng và đã tìm cách thay thế vị Thiên Chúa ba ngôi vị và nhập thể bằng một Đơn Nhất Tính tối cao, trong đó sự đa dạng phong phú của lịch sử chúng ta biến mất (GE 43).
-
-
- Vẻ Đẹp Toàn Bích Của Ơn Gọi Nên Thánh Kitô giáo
-
Các lề luật của Do Thái giáo, cũng như các triết thuyết và văn hoá Hy Lạp, với mức độ khác nhau, cũng đã đều cung cấp cho con người sự khôn ngoan để có thể tự nỗ lực trở nên hoàn thiện. Nhưng với mạc khải của Đức Kitô, tất cả các khôn ngoan này không còn mang ý nghĩa quyết định.[18] Luật Do Thái cũng như các phương tiện cứu rỗi khác không còn hiệu nghiệm tuyệt đối khi Đức Kitô “chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10,14). Nên thánh kể từ đây không còn được xem là một nỗ lực công chính hoá của mỗi cá nhân, bằng sức mạnh ý chí của riêng mình. Ơn cứu rỗi và sự hoàn thiện đồng nghĩa với với niềm tin vào Đức Kitô khi
sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được nên công chính (Rm 3,21-26).
Đây chính là một lời rao giảng tận căn nhất của Kitô giáo ngay từ đầu,[19] nhưng đây cũng chính là một đòi hỏi luôn thách thức quan niệm về sự hoàn thiện của con người ở mọi thời đại. Những người đồng thời với Đức Kitô chấp nhận phép lạ khi Ngài chữa lành bệnh hoạn tật nguyền thể xác, nhưng chông đối khi Ngài phục hồi sự lành mạnh thánh thiện cho bệnh nhân bằng việc tha thứ tội lỗi cho họ (x. Mt 9,1-5; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26). Người đạo đức Do Thái không chấp nhận sự trao ban và phục hồi sự thánh thiện chỉ do lòng tin mà không có công nghiệp của người đón nhận. Khi Đức Kitô tha thứ và chấp nhận người tội lỗi ăn năn trở lại thì đối với những người cho rằng mình đạo đức tốt lành đây là một bất công đối họ.[20]
Thực ra, Phúc Âm một cách nào đó có thể được xem là một bản tường thuật dài về sự đối đầu, nhiều lúc rất quyết liệt giữa lời rao giảng của Đức Kitô với những “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18,9). Xem ra Đức Kitô đã không thành công trong việc gặp gỡ và đối thoại những bậc thầy đạo đức của Do Thái giáo đương thời. Ngược lại giáo huấn của Ngài đã bị xem là khuyến khích coi thường và bãi bỏ lề luật (x. Mt 15,1-8; Mc 7,1-12). Con đường nên thánh mới Đức Kitô mở ra cho nhân loại đã không được chấp nhận nhưng trở nên nguyên nhân xúc phạm và chống đối (x. Mc 3,5; Lc 23,34, Cv 3,17-18; Rm 11,20-25) cho những người chủ trương những việc làm đạo đức của họ quyết định sự thánh thiện của họ. Đối với những người đạo đức tự hào vì “ăn chay mỗi tuần hai lần” và, “dâng cho Chúa một phần mười thu nhập” (Lc 18,12) thì việc khiêm tốn chấp nhận sự tha thứ nhưng không từ Thiên Chúa là điều vô lý và không hiểu được.[21]
Đức Kitô gọi thái độ này là “men Pharisiêu” và căn dặn các môn đệ Ngài xa trách (x. Mt 16,5-12). Tuy vậy, Giáo Hội Chúa Kitô chưa bao giờ hoàn toàn vượt ra khỏi ảnh hưởng của men Biệt Phái này.[22] Luôn luôn vẫn còn các cố gắng “tự thánh hoá”, có nghĩa rằng tự lực tạo những thành tựu cá nhân đem lại sự tự mãn cho người đạt được nhưng không dẫn đến tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa là Cha cũng như đối với anh chị em đồng loại của mình. Đó chưa phải là linh đạo đích thực Kitô giáo. Đức Thánh Cha trong Tông Huấn đối diện với những lệch lạc này khi ngài cho thấy
một số Kitô hữu vẫn cố đi con đường khác, đó là con đường công chính hóa bằng những nỗ lực riêng của mình, tức tôn thờ ý chí con người và những khả năng của họ. Kết quả là một sự tự mãn mang tính trịch thượng và qui ngã, đánh mất đi tình yêu đích thực. Điều này được diễn tả nơi nhiều cách nghĩ và cách làm có vẻ rất khác nhau: nỗi ám ảnh về lề luật, sự miệt mài bận tâm về những thuận lợi chính trị và xã hội, mối quan tâm quá chi li về phụng vụ, giáo lý và thanh thế của Giáo hội, thái độ kiêu hãnh về khả năng xử lý những vấn đề thực tiễn, và mối bận tâm quá đáng về những chương trình tự lực và sự thành tựu cá nhân. Một số Kitô hữu bỏ thời giờ và sức lực cho những điều này, hơn là cho phép chính mình được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương, hơn là khao khát chuyển đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng và khao khát tìm kiếm những người lạc mất trong những đám đông đang khát vọng Đức Kitô (GE 57).
Đáp lại tiếng gọi nên thánh trong đức tin Kitô giáo là để cho Thánh Thần dẫn dắt trên con đường yêu thương hầu có thể chuyển đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng cho mọi người mọi nơi. Một khi chiều kích căn bản này trong ơn gọi nên thánh không hiện hữu, lúc đó
đời sống của Giáo hội có thể trở thành một món bảo tàng hay là của riêng của một thiểu số ưu tuyển. Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu gán tầm quan trọng quá đáng cho những qui tắc, những tập tục hay cách làm nào đó. Khi đó Tin Mừng dễ bị cắt xén và thu hẹp, bị tước mất tính chân chất, vẻ quyến rũ và hương vị của nó… Một khi chúng ta tin rằng mọi sự lệ thuộc vào cố gắng của con người như được chuyển tải bởi các qui tắc và các cơ cấu của Giáo hội, chúng ta sẽ vô tình làm cho Tin Mừng trở nên phức tạp, và ta trở thành nô lệ cho một đề án vốn không chừa mấy chỗ để đón nhận hoạt động của ân sủng… (GE 58-59).
Đức Giêsu đã đối đầu với sự bất quân bình trong đời sống đạo đức của các kinh sư và người Pharisiêu khi thấy rằng họ “nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14; Mc 12,39). Lòng đạo đức của họ không còn tính toàn vẹn khi họ “bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín” (Mt 23,23). Họ trở thành những kẻ giả hình khi “nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa”(Lc 11,42). Để giúp tìm lại nét quân bình và tinh nguyên của lòng đạo đức thực sự, Đức Kitô đã đưa ra một nguyên tắc có giá trị ngàn đời cho con đường hoàn thiện: “Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ” (Mt 23,23; Lc 11,42). Với nguyên tắc căn bản này của Phúc Âm Tông Huấn Gaudete et Exsultate cũng muốn phục hồi lại nét toàn bích của ơn gọi nên thánh Kitô giáo:
Chúng ta có thể tưởng rằng mình tôn vinh Thiên Chúa chỉ qua việc thờ phượng và cầu nguyện, hay đơn giản chỉ qua việc tuân thủ một số qui tắc đạo đức nào đó. Quả đúng là mối ưu tiên thuộc về tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, nhưng chúng ta không được quên rằng tiêu chuẩn tối hậu theo đó chúng ta được phán xét chính là những gì chúng ta làm cho tha nhân. Cầu nguyện là quí nhất, vì cầu nguyện giúp nuôi dưỡng sự dấn thân cho tình yêu hằng ngày. Việc thờ phượng của chúng ta trở thành được Thiên Chúa vui lòng khi chúng ta quên mình để sống quảng đại, và cho phép ơn huệ của Thiên Chúa, được ban cho trong cầu nguyện, thể hiện ra trong mối quan tâm của chúng ta đối với anh chị em mình (GE 104).
Đời sống cầu nguyện nội tâm đích thực biến đổi con người trong ánh sáng của lòng thương xót và dẫn đến các hành động thể hiện sự viên mãn của công bình và chân lý. Đó là vẻ đẹp toàn bích của Phúc Âm mà tất cả các linh đạo khiếm diện không thể cung cấp được. Các linh đạo không lấy Tin Mừng làm căn bản sẽ biến thành
các ý thức hệ dẫn chúng ta tới hai sai lầm đầy tai hại. Một đàng, có loại sai lầm của những Kitô hữu tách rời các đòi hỏi này của Tin Mừng khỏi mối tương quan cá vị của họ với Chúa, tách khỏi sự kết hợp bên trong của họ với Người, tách khỏi việc mở lòng ra đón nhận ân sủng. Kitô giáo như vậy trở thành một loại tổ chức phi chính phủ (NGO) bị tước mất đặc tính thần bí ngời sáng quá rõ ràng như thấy nơi cuộc đời của các thánh Phanxicô Assisi, Vincent de Paul, Têrêsa Calcutta, và nhiều vị khác. Đối với các vị thánh nổi tiếng này thì tâm nguyện, lòng yêu mến Thiên Chúa và việc đọc Tin Mừng không hề tách các ngài ra khỏi sự dấn thân nồng nhiệt và hữu hiệu cho tha nhân; mà hoàn toàn ngược lại (GE 100).
Một khi đánh mất khả năng nhìn thấy vẻ đẹp toàn bích của Tin Mừng, để mình bị lôi kéo vào một thái cực nào đó và cho rằng điều duy nhất quan trọng chính là vấn đề hay chủ trương đạo đức mà họ bảo vệ và coi thường hay phê phán những giá trị khác của sự toàn thiện. Thái độ “phe nhóm phân cực” này Đức Kitô đã phải đối diện rất nhiều từ những người bằng mọi cách từ chối sứ điệp Phúc Âm.[23] Thái độ này trong thời đại chúng ta hôm nay là động lực để các lý tưởng và giá trị của Tin Mừng bị tách rời riêng rẻ và dùng cho những mục đích của các ý thức hệ khác nhau. Khi để mình bị điều khiển bởi các ý thức hệ nhiều người sẽ nghi ngờ sự dấn thân xã hội của những người khác, xem đó như cái gì không chấp nhận được hoặc phải đả phá. Để cảnh báo cho vấn nạn này, Tông Huấn đề cập đến một trường hợp điển hình:
Chẳng hạn việc chúng ta bảo vệ các thai nhi vô tội cần phải rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt, vì đây là chuyện bảo vệ phẩm giá sự sống con người, vốn luôn thánh thiêng và luôn có quyền được yêu thương, bất kể ở giai đoạn phát triển nào. Tuy nhiên, cũng thánh thiêng không kém, đó là sự sống của những người nghèo, những con người đã được sinh ra đời, những người cùng cực, những người bị bỏ rơi và thua thiệt, những người đau yếu và già cả bị làm mồi cho cái chết êm dịu được giấu giếm, những nạn nhân của các vụ buôn người. những dạng nô lệ mới, và mọi hình thức loại trừ. Chúng ta không thể thượng tôn một lý tưởng thánh thiện mà trong đó ta thờ ơ trước sự bất công trong một thế giới mà một số người mặc sức lãng phí, tiêu pha vung vít và chỉ hăm hở tìm kiếm những món hàng tiêu dùng mới nhất, trong khi những người khác chỉ biết nhìn từ xa, và sống trọn kiếp đời trong cảnh khốn khổ (GE 101).
Tóm lại, Đức Thánh Cha cố gắng để qua Tông Huấn Gaudete et Exsultate xác định lại vẻ đẹp toàn bích trong ơn gọi nên thánh của người Kitô hữu gắn liền và phản ảnh đời sống của Đức Kitô. Muốn hiểu đúng ơn gọi nên thánh của Kitô giáo phải trở về nguồn của bối cảnh Tân Ước nơi đó Đức Kitô sống và rao giảng Phúc Âm. Các môn đệ đầu tiên gặp gỡ Đức Kitô không phải được mời gọi để học thuộc lòng các điều lệ hay đào sâu một giáo thuyết nhưng là “đến mà xem” (Ga 1,39) để rồi bước theo và ở lại với Đức Kitô. Họ được mời gọi để qua Đức Kitô học để trở nên giống Cha là Đấng ngự trên trời, là “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Đó chính là sự hoàn thiện toàn bích của “Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).[24]
Thay Lời Kết
Thánh Phaolô vào khoảng mùa Xuân năm 55 AD từ Macêđônia đã gởi lá thư thứ hai đến giáo đoàn Côrintô, trong đó thánh Tông Đồ viết:
Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người (2Cr 5,17-21).
Trong bản văn súc tích này thánh Phaolô gọi những người được ơn thánh biến đổi trong Đức Kitô là “thọ tạo mới” (new creation). Từ ngữ này đặc biệt và chỉ xuất hiện hai lần trong Tân Ước. Cả hai lần đều được dùng trong thư của thánh Phaolô.[25] Thật ra thánh Phaolô cũng không khám phá hay chuyển tải điều gì mới mẻ, ngài chỉ đúc kết và diễn tả điều Đức Kitô đã bằng cách này hay cách khác giảng dạy và giải thích trong Phúc Âm.
Ngay trong Bài Giảng Trên Núi hay còn được gọi là Hiến Chương Nước Trời, Đức Giêsu đã phân biệt rõ ràng: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” (Mt 5,20-21.27-28.31-32.33-34.38-39.43-44). Khi dùng cùng một công thức và lặp lại không dưới sáu lần, Đức Kitô cố ý nhấn mạnh giáo huấn Ngài công bố đem lại một điều hoàn toàn mới, không còn bị ràng buộc bởi bất cứ lề luật nào trước đó. Với sự mới mẻ trong giáo thuyết và thực hành đạo đức, Đức Kitô và các môn đệ Ngài đã trở nên đối tượng để bị theo dõi, phê bình và đố kỵ bởi những đầu óc thủ cựu, quyết bảo vệ lề luật và truyền thống (x.Mt 9,14-17; 12,1-14; 15,1-20; Mc 2,18-22.23-28; 7,1-13; Lc 6,1-11,etc…). Bất chấp mọi âm mưu chống đối, Đức Kitô, Đấng sẽ bắt đầu một “giao ước mới, lập bằng máu Thầy” (Lc 22,20), đã dứt khoát tuyên bố và bảo vệ sự mới mẻ tuyệt đối của con đường hoàn thiện Ngài mở ra cho nhân loại:
Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ. Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới (Lc 5,36-38).[26]
Thực vậy Phúc Âm cũng như toàn bộ Tân Ước muốn chuyển tải cho chúng ta sự mới mẻ tuyệt đối của con đường nên thánh trong Đức Kitô. Sách Khải Huyền đã nói đến “trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất” (Kh 21,1). Với Đức Kitô, một cuộc tạo dựng mới đã thực sự bắt đầu bởi vì trong Đức Kitô, chúng ta được chọn gọi
trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh nhan Người,
ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người.
Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-5).
Đây là một điệp khúc các Kitô hữu tiên khởi, giữa những khó khăn bắt bớ, đã lặp đi lặp lại để nhắc nhớ đến ơn gọi cao cả vượt thời gian và không gian của mình. Thực vậy, trong cuộc tạo thành thứ nhất, cuộc tạo dựng củ, con người được dựng nên từ bùn đất để trở nên một tạo vật mang lấy hình ảnh của Đấng Tạo Thành (x. Stk 1,26-27; 2,19). Cuộc tạo dựng mới trong Đức Kitô không còn lệ thuộc vào bùn đất, cũng không “do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13). Những ai được tạo dựng, được tái sinh trong niềm “tin vào danh Người” thì không phải chỉ để trở một thụ tạo, nhưng “Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”, chia sẻ “vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,12.14).
Đó chính là sự mới mẻ, cao trọng và độc sáng của sự hoàn thiện Kitô giáo mà Đức Kitô xác nhận khi so sánh sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước và sự thánh thiện được trao ban cho các tín hữu của Tân Ước: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).
[1]Một sự kiện mới nhất và có tính thời sự liên quan đến quan sát này là việc Đức Thánh Cha Phanxicô vào đầu tháng 8 năm 2018 này, sau khi nghiên cứu, lắng nghe và bàn hỏi đã tuyên bố án tử hình không thích hợp với giáo lý Kitô giáo. Quyết định này gần như được cả thế giới văn minh tán thành và ủng hộ. Thực ra giáo huấn của Đức Thánh Cha không có gì mới mẻ đối với các nước đã lấy các giá trị luân lý Kitô làm nền tảng: Án tử hình đã bị huỷ bỏ và là một điều xa lạ đối với đa số các nước văn minh, đặc biệt với các nước thuộc khối Âu Tây. Nhưng đối với một số nước mà dân chúng còn chưa đạt được trình độ trưởng thành nhân bản cao thì án tử hình vẫn còn phải dùng để ngăn ngừa tội phạm cho xã hội. Mỹ quốc là nơi tệ nạn xã hội và tội phạm giết người còn cao (một trong những lý do chính có thể là do chủ trương tự do dùng vũ khí) nên án tử hình vẫn còn áp dụng tại đa số các tiểu bang của Mỹ. Một số người Công Giáo Mỹ theo chiều hướng chính trị bảo thủ ủng hộ án tử hình đã (nhân danh thần học luân lý và giáo lý Công Giáo!) lên tiếng chống đối lại Đức Thánh Cha. Những người này đã lẫn lộn giữa quan điểm chủ trương chính trị và đức tin Công Giáo của họ. Khuynh hướng bảo thủ (đôi lúc quá khích) về chính trị (bênh vực và đề cao án tử hình) đã ảnh hưởng mạnh trên suy nghĩ và cách sống của những tín hữu này đến nỗi họ không còn khả năng để lắng nghe và chấp nhận quyền giáo huấn chính thức của Giáo Hội.
[2] Tên của Tông Huấn cũng như các trích dẫn tiếng Việt trong bài viết được lấy từ bản dịch của Lm. Lê Công Đức, PSS. (http://xuanbichvietnam.net/trangchu/tong-huan-hay-vui-mung-hoan-hi-gaudete-et-exsultate-ban-dich-day-du-co-hieu-chinh-so-voi-ban-da-dang-truoc-day/). Trong bản dịch này đầu đề của Tông Huấn được dịch là Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ. Thực ra Exsultate trong tiếng La Tinh hàm một nghĩa tương đối mạnh, diễn tả không phải chỉ là trạng thái nhưng còn là hành động: Exsultate có thể hiểu “hãy nhảy mừng”.
[3] Các tín hữu đều biết và thuộc lòng theo giáo lý là Đức Kitô sống ở trần thế 33 năm. Nhưng không nơi nào trong Kinh Thánh Tân Ước nói đến con số 33 này. Thánh Luca đã nói Chúa Giêsu “trạc ba mươi tuổi” (Lc 3,23) khi người bắt đầu rao giảng. Thánh Gioan thì đề cập Chúa Giêsu đã mừng lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ba lần trong đời sống công khai. Lần thứ nhất với việc Ngài thanh tẩy Đền Thờ: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem…” (Ga 2,13tt.). Lần thứ hai với việc Ngài hoá bánh ra nhiều: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. Ngước mắt nhìn lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình…” (Ga 6,4tt). Lần thứ ba Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ công khai của Ngài và thiết lập lễ Vượt Qua mới cho lịch sử cứu độ: “Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do Thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giêrusalem… Còn các thượng tế và người Pharisiêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt…” (Ga 11,55.57). Truyền thống đã lấy số liệu của hai thánh sử để tổng hợp và tìm ra số tuổi trần thế của Đức Giêsu.
[4] Đức Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đương vị đầu tiên trong lịch sử đi hành hương Thánh Địa. Chuyến tông du đến Trung Đông (Giordan và Israel) của ngài từ ngày 4 đến ngày 6 tháng giêng năm 1964 cũng là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng đương kim rời khỏi nước Ý kể từ năm 1809. Trong chuyến tông du đầu tiên này, tại Núi Cây Dầu, Đức Phaolô VI đã gặp Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Athanagoras I của Constantinople, để cùng gỡ vạ tuyệt thông mà Công Giáo và Chính Thống Giáo đã áp đặt lên nhau kể từ năm 1054. Cùng năm đó Đức Phaolô đã thăm Ấn Độ nhân dịp ngài tham dự Đại Hội Quốc Tế Thánh Thể lần thứ 38 tổ chức tại Bombay. Tiếp đó Đức Phaolô còn thực hiện 6 chuyến tông du nữa trên khắp các lục địa. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên viếng thăm Trụ Sở Liên Hiệp Quốc và phát biểu tại Thượng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 10 năm 1965 trong đó ngài kêu gọi hoà bình cho Việt Nam. Trong chuyến tông du Manila Philippines năm 1970, ngài đã truyền chức cho một số tân chức, trong đó có một số linh mục Việt Nam. Cho dầu các đấng kế vị (đặc biệt thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) đã vượt qua ngài về số các chuyên tông du trong các triều đại giáo hoàng kế tiếp, nhưng danh hiệu Giáo Hoàng Tông Du – Giáo Hoàng Hành Hương (Pilgrim Pope) vẫn là danh hiệu được trao tặng và gắn liền với Đức Phaolô VI.
[5] Bài giảng của ĐGH Phaolô VI tại Đền Thờ Đức Mẹ Truyền Tin ở Nazarét ngày 05 tháng 01 năm 1964.
[6] Đức Phaolô VI có thể được nhìn nhận là vị Giáo Hoàng đã đề cao ơn gọi nên thánh phổ quát cho thời đại chúng ta. Các dạy dỗ riêng của ngài luôn để cao điều này. Đặc biệt các tài liệu của Công Đồng Vatican II do chính ngài ấn ký ban hành luôn chú trọng và đề cao chiều kích phổ quát của ơn gọi nên thánh (x. LG 11; 32). Trong Tông Huấn, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Chân Phước Phaolô VI, khi đề cập đến những trở ngại đối với việc loan báo Tin Mừng, đã nói về tình trạng thiếu lòng hăng say (parrhesía) vốn “nghiêm trọng hơn nhiều, vì nó đến từ bên trong”. Biết bao lần chúng ta bị cám dỗ giữ thuyền sát bờ! Nhưng Chúa mời gọi chúng ta chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới (x. Lc 5,4). Người mời gọi chúng ta dâng hiến đời mình để phục vụ Người. Bám chặt Người, chúng ta được thúc đẩy đặt tất cả đặc sủng của mình để phục vụ tha nhân. Ước gì chúng ta luôn luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa thôi thúc (2Cr 5,14) và nói như Thánh Phaolô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)” (GE 130).
[7] Ơn gọi nên thánh của người Kitô bắt đầu và đặt căn bản trong bí tích Rửa Tội là bí tích trao ban chức vị tư tế cho tất cả những ai được tháp nhập vào Đức Kitô Linh Mục. Hiến chế Lumen Gentium đã dạy rõ ràng về điểm này: “Chúa Kitô, Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài người, để biến dân tộc mới thành một “vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người” (Kh 1,6; x. 5,9-10). Thực vậy, những người đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ được tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, được cung hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của con người Kitô hữu, dâng của lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài… Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản chất, song cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình 2. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa Kitô cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng. Phần tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực” (LG 10).
[8] Tông Huấn đã đào sâu và quảng diễn giáo huấn này của Công Đồng: “Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình trong cộng đoàn, sát cánh với những người khác. Chúng ta thấy điều này nơi một số cộng đoàn thánh thiện. Lúc này lúc khác, Giáo hội đã tuyên thánh trọn cả những cộng đoàn đã sống Tin Mừng một cách anh hùng hay đã dâng hiến cho Thiên Chúa sự sống của tất cả các thành viên… Mỗi cộng đoàn được mời gọi kiến tạo “một không gian được Thiên Chúa chiếu sáng để kinh nghiệm sự hiện diện giấu ẩn của Chúa Phục sinh trong đó”. Việc chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể với nhau đẩy mạnh tình huynh đệ và làm cho chúng ta trở thành một cộng đoàn thừa sai thánh thiện. Điều đó cũng đem lại những kinh nghiệm thần bí đích thực chia sẻ chung với nhau. (GE 141-142)
[9] Sắc Lệnh về Hiệp Nhất – Unitatis Redintegratio, số 3, dạy về gia tài thánh thiện chung của các Kitô hữu ngoài Giáo Hội Công Giáo: “… Vậy ngày nay, những người sinh trưởng trong các Cộng Ðoàn ấy và thấm nhuần đức tin nơi Chúa Kitô không thể bị kết tội chia rẽ và Giáo Hội Công Giáo kính trọng, yêu thương họ như anh em. Thật vậy những người tin ở Chúa Kitô và đã được rửa tội đúng phép vẫn còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo một cách nào đó cho dầu không được hoàn hảo. Hiển nhiên là các dị biệt dưới nhiều hình thức giữa họ và Giáo Hội Công Giáo về vấn đề giáo lý, đôi khi về kỷ luật hay cơ cấu Giáo Hội, gây cho việc hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội khá nhiều trở ngại và có khi lại là những trở ngại lớn lao mà phong trào hiệp nhất đang cố gắng vượt qua. Tuy nhiên một khi đã được công chính hóa nhờ đức tin khi chịu phép rửa tội, họ đã được tháp nhập vào Chúa Kitô và vì thế có quyền mang danh Kitô hữu và xứng đáng được con cái của Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận là anh em trong Chúa… Các anh em ly khai với chúng ta cũng cử hành nhiều lễ nghi phụng vụ của Kitô giáo. Những lễ nghi ấy, chắc chắn có thể thực sự phát sinh đời sống ơn thánh và phải được công nhận là đường đưa đến sự thông hiệp vào ơn cứu rỗi, tuy cách thức có khác nhau tùy hoàn cảnh của mỗi Giáo Hội hay Cộng Ðoàn…” (UR 3).
[10] Đức Bênêđictô XVI (Joseph Ratzinger) không phải là nghị phụ nhưng có mặt tại Công Đồng với tư cáchperitus, cố vấn thần học cho Đức Hồng Y Joseph Frings.
[11] Cùng với Aggiornamento – cập nhật đổi mới, Ad Fontes – trở về nguồn là thuật ngữ (khẩu hiệu) quan trọng đã thúc đẩy công việc canh tân của Công Đồng Vatican II, nỗ lực đưa Giáo Hội trở về với cội nguồn Phúc Âm – Tân Ước của mình.
[12] “Được trao ban nhiều phương tiện cứu độ dồi dào và cao quí như thế, tất cả các tín hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng đều được Chúa kêu gọi, để mỗi người mỗi cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành” (LG 11).
[13] Ơn gọi nên thánh của các thành phần khác nhau trong Giáo Hội cũng đã được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh trong Sắc Lệnh vể Tông Đồ Giáo Dân: “Trong Giáo Hội có nhiều tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mệnh. Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông Ðồ và những người kế vị các ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền Người mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Còn phần giáo dân, vì họ tham dự thực sự vào nhiệm vụ tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Kitô, nên họ chu toàn phần việc của mình trong sứ mệnh của toàn dân. Thiên Chúa trong Giáo Hội và ở giữa trần gian. Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình để rao giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại. Vì bản chất riêng biệt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột (AA 2).
[14] Thánh Phaolô rất rõ ràng và độc sáng khi diễn tả sự mới mẻ và dứt khoát của mạc khải chung cuộc trong Đức Kitô: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta… Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin… Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,1-3.16-17).
[15] Chúng ta sẽ có cái nhìn khái quát về các linh đạo Do Thái giáo thời Đức Kitô trước khi kết thúc bài này.
[16] Tông Huấn xác nhận khuynh hướng lầm lạc này “có mặt trong Giáo hội, cả nơi giáo dân ở các giáo xứ lẫn nơi các thầy dạy triết học hay thần học tại các trung tâm đào tạo. Những người theo ngộ đạo thuyết nghĩ rằng những giải thích của họ có thể làm cho tất cả đức tin và Tin Mừng có thể được nhận hiểu hoàn toàn. Họ khư khư bám chặt vào các lý thuyết của họ và ép người khác phải chấp nhận cách nghĩ của họ. Việc sử dụng lý trí cách khiêm tốn và lành mạnh để suy tư về giáo huấn thần học và luân lý của Tin Mừng, đó là một chuyện. Nhưng sẽ là một chuyện khác, nếu giảm trừ giáo huấn của Chúa Giêsu đến chỉ còn là một luận lý khắc nghiệt và lạnh lùng nhằm tìm cách thống trị mọi sự” (GE 39).
[17] Có thể nói đây là sự tiếp nối cách suy nghĩ mà Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án: “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề. (Mt 23,16-22).
[18] Thánh Phaolô đã phân biệt hai thứ khôn ngoan, một của loài người và một của Thiên Chúa: “Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1,21-25).
[19] Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái cũng hết sức rõ ràng trong sứ điệp này: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10,8-10).
[20] Bởi vì, theo ngôn ngữ của Phúc Âm, họ là những người cả “đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh” (Lc 15,29), hay là những người thợ làm vườn từ sáng sớm “đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12). Thái độ này Phúc Âm cho chúng ta thấy rất rõ khi người đàn bà tội lỗi xuất hiện trong bữa tiệc những người Pharisiêu cùng dự với Chúa Giêsu tại nhà một thủ lãnh Pharisiêu (x. Lc 7,36-49).
[21] Chính ở điểm này chúng ta thấy rằng Phúc Âm thường tỏ ra khoan dung rộng rãi với sự yếu đuối của con người nhưng lại tỏ ra khe khắc với sự chai lì đóng kín kiêu căng tự mãn của bất cứ ai. Ngay trong thái độ của thánh Gioan Tẩy Giả, người chuẩn bị dân chúng để đón nhận Đức Kitô, cũng đã xác định điều này. Đối với những người bị xã hội Do Thái xem là tội lỗi vì không trung thành tuyệt đối với căn tính của dân được chọn, chấp nhận phục vụ như nhân viên thu thuế hay quân nhân cho chính quyền ngoại bang, thánh nhân cho những lời khuyên nhẹ nhàng thực tế là họ “đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh… Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình” (Lc 3,13-14). Ngược lại đối với đám đông tự hào vì địa vị là con cái Abraham của mình, vị Tẩy Giả đã hết sức mạnh mẽ cảnh cáo: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các ngươi hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham; vì, ta nói cho các ngươi hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc 3,7-10).
[22] Các môn đệ của Đức Kitô ở mọi thời đại đọc Phúc Âm với tâm trí mở rộng và lương tâm thành thực, vẫn luôn có thể nhận ra mình nơi những lời quở mắng cảnh cáo của Đức Giêsu đối với các Luật Sĩ và Biệt Phái: “… Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”. “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rápbi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,2-12). Bản văn này cũng như những bản văn tương tự luôn có giá trị để xét mình và thăng tiến nội tâm cho các Kitô hữu, đặc biệt những ai có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội Chúa Kitô.
[23] Tiêu biểu cho thái độ này là việc những người chống đối Tin Mừng cố gắng tạo sự tương phản giữa cách sống lòng đạo đức của Đức Kitô và các môn đệ Ngài với thánh Gioan Tẩy Giả và các môn đệ ông: “Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than. “Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. Nhưng Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.” (Lc 7,31-35).
[24] Chính ở điểm này chúng ta thấy mọi âm mưu chính trị muốn dùng một vài lý tưởng đạo đức luân lý để tạo nên chiến tranh hay mâu thuẫn tôn giáo nhân danh Kitô giáo đều không có căn bản và nguồn gốc Phúc Âm. Sự hoàn thiện của Phúc Âm hệ tại ở việc “…nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài… hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,39-40.44).
[25] Lần thứ hai trong thư gởi tín hữu Galata: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới” (Gl 6,14-15).
[26] Tiếp đó, Đức Kitô nói thêm: “Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: “Rượu cũ ngon hơn.” (Lc 5,39). Ngài có ý nói đến những người đã quen với quyền lợi ăn trên ngồi trước trong giai cấp tôn giáo của mình trong hệ thống củ nên không thể chấp nhận sự mới mẻ của Phúc Âm. Điều này cũng giúp Kitô hữu hôm nay hiểu những người nhân danh “truyền thống” hay các giá trị bảo thủ của mình để chống đối lại các cuộc canh tân đổi mới trong đời sống Giáo Hội.
Tác giả bài viết: Lm. Paulus Ý