VÌ SAO RỰC SÁNG GIỮA TRỜI NAM

Views: 9

(Khảo luận tổng hợp nhân kỷ niệm 25 năm Thầy giảng Anrê Phú Yên được tôn phong Chân phước Tử đạo (5.3.2000 – 5.3.2025) và 400 năm sinh nhật của ngài (1625 – 2025)[1]

Dẫn nhập tổng quát:

          Trong khung cảnh đầy tràn niềm vui và phấn khởi đạo đức của Năm Thánh thường lệ 2025 với định hướng thiêng liêng và mục vụ mang chiều kích sinh động “hành hương của niềm hy vọng”[2], Giáo hội Việt Nam, đặc biệt, Giáo phận Qui Nhơn long trọng mừng kỷ niệm hai sự kiện lịch sử mang dấu ấn đức tin liên quan đến thời điểm (Kairos) quan trọng này:

–  Mừng hai mươi lăm năm ngày Thầy giảng Anrê Phú Yên được tôn phong Chân phước Tử đạo trong dịp Đại Năm Thánh 2000: 05.3.2000 – 05.3.2025.

– Mừng sinh nhật lần thứ 400 năm của Á thánh Anrê Phú Yên: 1625 – 2025.

          Chúng ta có thể tìm thấy hai lý do đặc biệt trong việc Giáo hội Việt Nam, Giáo phận Qui Nhơn mừng kính long trọng Á thánh Anrê Phú Yên trong chính bức thư mục vụ của Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi gởi cộng đồng dân Chúa Giáo phận Qui Nhơn nhân dịp “Mừng kỷ niệm 25 năm ngày Thầy giảng Anrê Phú Yên được tôn phong Chân phước Tử đạo” (5.3.2000 – 5.3.2025).

– Nêu cao vai trò chứng tá và mẫu gương đức tin rạng ngời của Á thánh Anrê Phú Yên để dân Chúa noi theo:

“Thầy giảng Anrê Phú Yên được diễm phúc tử đạo ngày 26 tháng 7 năm 1644. Ngài là Người Chứng Thứ Nhất của cả Giáo Hội Việt Nam. Từ ngày được tôn phong Chân phước, cuộc đời và cuộc tử đạo của ngài ngày càng được nhiều người biết đến, cả trong nước lẫn nước ngoài. Ngài trở thành mẫu gương của mọi Kitô hữu, đặc biệt là giới trẻ và anh chị em giáo lý viên”[3].

– Nỗ lực tôn kính và cầu nguyện để Chân phước Tử đạo Anrê Phú Yên được mau phong thánh:

          “Trong thánh lễ bế mạc Năm thánh giáo phận, ngày 26 tháng 7 năm 2018, Giáo phận Qui Nhơn đã bắt đầu hướng đến năm 2025, kỷ niệm 25 năm ngày Thầy giảng Anrê Phú Yên được tôn phong Chân phước và kỷ niệm 400 năm sinh nhật của ngài, bằng việc gia tăng lòng sùng kính đối với ngài. Nhiều người hy vọng rằng đây sẽ là thời điểm thích hợp để ngài được Tòa thánh tôn phong lên hàng Hiển thánh”[4].

          Cả hai lý do đó được lồng trong một kinh nguyện để mọi người cùng hiệp ý nguyện cầu trong năm đặc biệt này:

“… Năm nay, trong khung cảnh Năm thánh 2025, chúng con hiệp nhau mừng 400 năm sinh nhật của ngài (1625-2025). Chúng con khẩn khoản nài xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho Giáo phận Qui Nhơn được bình an và phát triển, cho mọi thành phần Dân Chúa, cách riêng cho giới trẻ và các giáo lý viên, biết sống thánh thiện để làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người. Đặc biệt, chúng con tha thiết nài xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con một phép lạ (thầm thĩ cầu nguyện riêng cho một người bị bệnh nặng vô phương cứu chữa), để Tòa thánh có thể tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh, nhờ đó tấm gương anh hùng tử đạo của ngài càng có sức chiếu tỏa nhiều hơn trong cuộc đời chúng con. Amen”[5].

          Nếu đích điểm của cuộc “hành hương trong hy vọng” chính là “gặp gỡ Đức Kitô” như Sắc chỉ Spes non confundit của Đức Thánh cha Phanxicô nêu rõ: Đối với mọi người, ước gì Năm Thánh là một thời điểm gặp gỡ Chúa Giêsu cách sống động và cá vị, Người là “cánh cửa” ơn cứu độ (x. Ga 10,7.9), là “niềm hy vọng của chúng ta” (x. 1 Tm 1,1), thì việc cùng nhau tìm về một chứng nhân đức tin hào hùng, sống động để chiêm ngưỡng, cầu nguyện và noi gương… nào không phải là một cuộc “hành hương hy vọng” đầy ý nghĩa và thiết thực sao!

          Thiết tưởng, nếu Thầy giảng Anrê Phú Yên không được phong Chân phước trong dịp Đại Năm Thánh 2000 với tư cách là “Chứng nhân tiên khởi” (Protomartyr) của Giáo Hội Việt Nam, mà “ẩn khuất” đâu đó trong hàng các Thánh, e rằng ngài cũng không được hiểu biết và tôn kính cách rộng rãi ở giữa lòng Giáo Hội hoàn vũ, Giáo Hội Việt Nam!

          Vâng, trong bài giảng tạ ơn sau dịp Thầy giảng Anrê Phú Yên được phong Chân phước, Đức cố Giám Mục Phêrô Nguyễn Soạn, nguyên Giám mục Giáo phận Qui Nhơn đã có những nhận xét chí lý về vai trò và vị trí của Á thánh Anrê Phú Yên:

“Á Thánh Anrê tuy được phong Chân Phước khá muộn thời, nhưng không vì thế mà mất đi tích cách thời sự, bởi lẽ hơn bao giờ hết, ngày hôm nay Giáo Hội rất tôn trọng vai trò của người tín hữu, đặc biệt giới trẻ và giáo lý viên. Á Thánh quả là xứng đáng và hợp thời được tôn phong lên làm bổn mạng của giáo dân, như người đặc trách rao truyền giáo lý của đạo Chúa. Sau 375 năm, trên bầu trời của Hội Thánh đã “rực sáng một vì sao”: Thầy Giảng Anrê Phú Yên được phong Chân Phước…”[6].

          Chính trong những ý nghĩa và mục tiêu trên, xin giới thiệu một chuyên luận về Á thánh Anrê Phú Yên, một “Vì sao rực sáng giữa trời Nam” và cả trên bầu trời thế giới!

PHẦN I: ANRÊ PHÚ YÊN: CUỘC GẶP GỠ CỦA HAI ĐƯỜNG “MỞ CÕI”

Dẫn nhập: Từ một cái “tên ghép”:

          Năm nay – 2025, Phú Yên kỷ niệm 417 năm ngày thành lập tỉnh: 1611 – 2025, căn cứ vào cột mốc lịch sử  với “biến cố Tân Hợi” mà bộ sử quan trọng của Triều Nguyễn[7], Đại Nam Thực Lục, đã ghi lại cách rõ ràng:

Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lẫn biến giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”[8]. (X. NGUYỄN ĐINH ĐẦU)[9].

          Không chỉ sử Việt ghi nhận cột mốc lịch sử “Nam tiến” này của dân tộc Việt Nam ta mà nhiều tác giả Tây phương cũng nói đến, chẳng hạn như hai tác giả OLGAR DROR & K.W. TAYLOR trong tác phẩm “Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài”:

“Năm 1611, chúa Nguyễn đã mở rộng biên giới xứ sở xuống tận đèo cả, tức bao gồm cả tỉnh Phú Yên ngày nay, và biến vương quốc Chiêm Thành trở thành chư hầu của mình”[10].

          Như vậy danh xưng “PHÚ YÊN”, một danh từ thuần túy Việt Nam, đã xuất hiện ngay trên phần đất tuyến đầu của thời “mở cõi”, mảnh đất biên thùy của xứ “Đàng Trong” thuở khởi nghiệp, mảnh đất ghi đậm dấu vết chiến chinh của hai dân tộc Chiêm Thành-Việt Nam mà nguyên nhân vừa mang yếu tố “thời sự”[11] vừa chất chứa “hạt mầm định mệnh” trong cái “bẫy Thucydides”[12].

          Trong khi đó, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, trong năm 2025 này, sẽ tưởng niệm 400 năm ngày sinh của một vị á thánh trẻ, Á Thánh Anrê Phú Yên (1625-2025) mà tên của Người là một tổng hợp đầy ý nghĩa, một gặp gỡ tuyệt vời giữa một bên là “Đạo trời với tên rửa tội Anrê” và một bên là “quê hương đất nước với địa danh Phú Yên”. Đây chính là tên gọi mà cha Đắc Lộ[13] đã ghi thật rõ trong tác phẩm ký sự “Hành trình và truyền giáo” (Divers voyages et missions) của ngài:

“Giáo dân vẫn sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế tôi không nói gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều tỉnh khác nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn toàn tận tụy với Giáo Hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho phúc tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi…”[14].

          Chính từ nguồn dẫn đầy thuyết phục này của cha Đắc Lộ mà tên gọi của vị “tử đạo tiên khởi Việt Nam” là một “tên ghép” tuyệt vời; vừa mang chiều kích “Đạo” (ANRÊ), vừa ghi dấu ấn “Đời” (PHÚ YÊN), như cách cảm nhận của tác giả Cosma Hoàng Văn Đạt[15]:

“Ở nhà hoặc trong giấy tờ anh tên là gì, không ai biết nữa. Thật là tiếc, nhưng cũng hay. Ngày nay, anh được mọi người gọi bằng tên thánh bổn mạng ghép với tên xứ sở. Anh đã trở thành linh thiêng, không ai gọi bằng tên riêng nữa…”[16].

          Vì thế, có thể nói, khía cạnh độc đáo nhất mà chúng ta có thể tìm thấy nơi Vị Á Thánh nầy lại chính là cuộc gặp gỡ giữa hai con đường “đời” và “đạo”; đó là con đường “MỞ CÕI ĐỊA LÝ” của dân tộc ta trên bước đường Nam tiến và con đường “MỞ CÕI TIN MỪNG” của các vị thừa sai và cha ông tiên tổ trong những nỗ lực thuở ban đầu gieo hạt giống Tin Mừng trên mảnh đất Việt Nam thân yêu.

          Trước hết, để có một cái nhìn khái quát về công cuộc “mở cõi” của cha ông trong bước đầu Nam tiến của dân tộc, chúng ta thử lần theo những “sự kiện lịch sử tiêu biểu” và những “cột mốc thời gian quan trọng” ghi dấu đoạn đường lịch sử đặc biệt này!

I. “PHÚ YÊN” VÀ CON ĐƯỜNG “MỞ CÕI ĐỊA LÝ”

          Chúng ta đang ở thời điểm năm 2025 với một đất nước Việt Nam trải dài từ địa vực biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc cho tới tận mũi Cà Mau với lãnh hải giáp vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, nếu ngược dòng thời gian trở lại thời điểm của hơn bốn thế kỷ về trước; đặc biệt, trước năm 1611, thì cương vực lãnh địa cũng như lãnh hải của nước Việt Nam ta hoàn toàn không như ngày nay!

          Quả thật, quá trình lịch sử “Nam tiến” của dân tộc Việt Nam ta là cả một con đường dài nhiêu khê và phức tạp, như nhận định của tác giả LI TANA:

“Cuộc Nam tiến không đơn thuần là một quá trình diễn ra theo đường thẳng, như người ta thường nghĩ, được quyết định trước qua đó “Việt Nam” của thế kỷ thứ 10 trở thành “Việt Nam” ngày nay mà đúng hơn, là một loạt những sự kiện khác nhau nhằm đáp ứng những hoàn cảnh hay cơ hội riêng biệt, đôi khi do những sự tình cờ ít nhiều có tính cách quân sự quyết định”[17].

          Để thấy rõ con đường dựng nước và giữ nước, đặc biệt, hành trình mở mang bờ cõi giang sơn của cha ông ta, không gì thuyết phục hơn đó là điểm lại các nguyên nhân, sự kiện và cột mốc lịch sử liên quan đến cuộc “Nam tiến trong thời kỳ đầu tiên”[18].

1. Những nguyên nhân xa mang tính “địa chính trị”:

1.1. Để tồn tại trước các thế lực lân bang:

          Suốt gần 10 thế kỷ, kể từ cuộc khởi nghĩa của “Hai Bà Trưng” (40-43)[19], Bà Triệu (248)[20]…, nước Việt Nam chúng ta bắt đầu ổn định lãnh thổ với quốc hiệu “Đại Cồ Việt” và thủ đô “Hoa Lư” trong hai biến cố lịch sử đáng ghi nhớ:

– Cuộc dẹp loạn “12 sứ quân” và thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng (968-979)[21].

– Cuộc chiến thắng quân xâm lược Tống của Lê Đại Hành (980-1005)[22] để khẳng định sự độc lập của dân tộc.

          Tuy nhiên, cũng kể từ đó, Việt Nam luôn chịu áp lực thường xuyên của đại cường phương Bắc trong thân phận của một quốc gia nhược tiểu và trong tư thế thần phục. Cho dù vậy, việc ổn định biên giới phía bắc với Trung quốc chủ yếu dựa vào con đường chính trị hơn là giải pháp quân sự. Trong khi đó, để tồn tại và sống còn như một quốc gia, dân tộc, cha ông ta luôn phải chọn con đường “Nam tiến” trong cuộc tranh chấp với các nước phía Nam; đặc biệt đó là nước Chiêm Thành hay vương quốc Champa, một dân tộc hùng mạnh, hiếu chiến và đã lắm lần xâm lược và muốn “xóa sổ” Việt Nam. Tham vọng này đã được khẳng định trong cuộc xâm lăng nước Việt của vương triều Chế Bồng Nga vào thế kỷ 14[23], kể cả việc chiếm cứ thủ đô Thăng Long:

“Thiệu Khánh năm thứ 2 (1371), tháng 3 nhuận, Chế Bồng Nga đem quân đi đường biển, vào cửa Đại An, kéo thẳng đến Thăng Long. Bấy giờ biên thành không phòng bị, giặc đến không có quân để chống đánh, vua Nghệ Tông phải đi thuyền sang sông Đông Ngàn để tránh. Ngày 27, quân giặc vào thành cướp hết các đồ châu báu, đốt sạch cung điện, đồ thư, bắt con gái, rồi rút về”[24]

1.2. Nam tiến và những chiến dịch quân sự, chính trị tiêu biểu:

          Để củng cố biến giới phía Nam và khuất phục nước Chiêm Thành, Đại Việt đã liên tiếp mở những “chiến dịch quân sự” hay chính trị đặc biệt, cũng là những bước “Nam tiến” mang tính quyết định về chiến lược:

“Chắc chắn các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc ấy đã tìm cách đẩy lui ranh giới của nước họ xuống phía nam, nhưng xem ra họ bị thúc đẩy bởi các lý do chiến lược hơn là kinh tế…”[25].

– Chiến dịch Nam tiến thời Tiền Lê với Lê Đại Hành năm 982, triệt hạ kinh đô Đồng Dương (Indrapura) bao gồm phía Bắc (từ Quảng Nam tới Quảng Bình)[26].

– Chiến dịch Nam tiến thời Lý với Lý Thái Tông năm 1044, triệt hạ kinh đô Phật Thệ hay Chà Bàn (Vijaya) bao gồm khu vực miền Trung (từ Bình Định tới Quảng Ngãi)[27].

– Chiến dịch Nam tiến thời Trần với Trần Nhân Tông gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân năm 1306 để đổi lấy hai châu Ô, Lý làm thành Thuận Châu và Hóa Châu (Tức Thừa Thiên và Quảng Nam ngày nay)[28].

– Chiến dịch Nam tiến thời Hồ với Hồ Hán Thương năm 1402 mở rộng biên giới phía nam tới Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và đưa dân Nghệ An, Thuận Hóa vào khai khẩn[29]. (Xem thêm: LI TANA)[30].

– Chiến dịch Nam tiến thời Lê (sơ) với Lê Nhân Tông năm 1446, triệt hạ kinh đô Vijaya[31].

– Chiến dịch Nam tiến thời Lê (sơ) với Lê Thánh Tôn năm 1471, triệt hạ kinh đô cũng là vương quốc Vijaya, sáp nhập vùng đất này vào đạo Thừa Tuyên Quảng Nam với 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài nhơn. Tác giả Đào Đức Chương đã lược tóm chiến dịch “bình Chiêm 1471” như sau:

“Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên (洪 德), vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hóa Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.”[32].

          Kể từ sau chiến dịch “bình Chiêm” năm 1471 của vua Lê Thánh Tôn, vương quốc Champa gần như sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại một tiểu quốc được Việt Nam bảo hộ với một vùng đất nhỏ hẹp Phanrang với quốc đô được mang tên là Panduranga[33]. Kể từ biến cố “Nam tiến lịch sử này”, vùng đất Phú Yên gần như mặc nhiên được triều đại Lê sơ xem như địa vực biên giới cố định của mình qua truyền thuyết hai câu ghi chú trên văn bia Thạch Bi Sơn[34] của vua Lê Thánh Tôn:

“Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong,

An Nam quá thử, tướng tru binh chiết”

(Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất

An Nam qua đấy, tướng chết quân tan)[35].

1.3. Các nguyên nhân khác của chương trình Nam tiến:

          Ngoài những lý do “an ninh quốc phòng”, bảo vệ lãnh thổ để an toàn và phát triển, cuộc Nam tiến của dân tộc ta còn được đốc thúc bởi các nguyên nhân xã hội khác như:

– Miền Bắc  và Bắc Trung bộ đất hẹp người đông lại thêm thiên tai, địch họa, nhiều lần xảy ra chiến tranh, loạn lạc, mất mùa, đói kém… đã khiến một số người bỏ làng quê tha phương cầu thực; nhất là về phương Nam dân thưa đất rộng, ít loạn lạc:

“Việc người Việt Nam di dân xuống phía nam thường vẫn được giải thích là do áp lực dân số trên một vùng đất nông nghiệp có giới hạn. Và những nguyên nhân trực tiếp đẩy một số dân đông đi về phía nam là nạn đói kém và chiến tranh…”[36].

– Sau các lần chiến thắng Chiêm Thành, vùng đất được chinh phục là “địa chỉ di dân” để tù binh khai hoang vỡ hóa, để quân đội giải ngũ làm ăn khai khẩn đất đai; và cũng là nơi để các phạm nhân trốn tránh, đổi vùng hoặc lao động khổ sai chuộc tội; những người khác tìm đất dụng võ, cơ hội tiến thân nơi vùng đất mới…

“Ngoài những cuộc di dân mà triều đình xuống chiếu chiêu mộ, khuyến khích sau mỗi lần lấn được đất Chiêm Thành, và những tù nhân bị án lưu hình như đã thấy trên kia, còn những người di cư lẻ tẻ, từng người một, từng gia đình, từng nhóm, thì chắc là không thời nào không có. Ấy là hạng người hoặc bất mãm với chế độ đương thời, hoặc can phạm tội tình nên phải tránh trốn, hoặc vì nghèo khó muốn đi tìm chỗ làm ăn dễ dàng hơn, hoặc vì phiêu lưu muốn đi tìm sự may mắn, giàu sang, đất dụng võ rộng rãi hơn.”[37].

– Chương trình “di dân chính trị”: khuyến khích di dân đến vùng đất mới, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ thuế má, khuyến khích nhân tài, kêu gọi sự khai phá của các cá nhân và gia tộc thế giá … để có đủ nhân sự cai trị và phát triển[38].

2. Nguyên nhân gần và sự kiện chính trị chuẩn bị:

2.1. Chính trị và chiến tranh nội bộ thời Lê – Mạc (Nam – Bắc triều): biến cố 50 năm nội chiến:

          Sau cuộc kháng chiến thất bại và Lê Chiêu Tông bị giết ở Thanh Hóa (1524), tiếp đến, quyền thần Mạc Đăng Dung ép vua Lê Cung Hoàng và thái hậu tự tử để cướp ngôi xưng vương lập triều đại nhà Mạc (1527)[39], vương triều nhà Lê một phần trốn chạy sang Ai Lao (Lào), một phần tản vô Thanh Hóa, Nghệ An tìm cách “trung hưng”. Năm 1543, nhờ đại thần Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm phò tá, nhà Lê chiếm được Tây Đô (Thanh Hóa) và từ đó mở ra một thời đại nội chiến tàn khốc Nam – Bắc Triều kéo dài gần nửa thế kỷ (1543-1592): Nam Triều từ Thanh hóa, Nghệ An trở vào do nhà Lê trung hưng cai quản; Bắc Triều: cả vùng Bắc bộ với kinh đô Đông Đô nhà Mạc làm chủ cho đến khi bị quân Lê – Trịnh đập tan năm 1592 và tận diệt hoàn toàn năm 1677[40].     

          Chính từ cuộc chiến “Nam Bắc Triều” nầy, nhất là sự hình thành trục Lê-Trịnh-Nguyễn tại Tây đô Thanh Hóa đã là nguyên nhân xa cho việc hình thành hai lực lượng chính trị “Đàng Ngoài” – “Đàng Trong”[41] để mở đường cho cuộc “Nam tiến” vào thế kỷ 16.

2.2. Trịnh Nguyễn hiềm khích và biến cố khởi đầu và quyết định cuộc “Nam tiến”: biến cố 1558:

Khởi đầu cho việc hình thành vương triều Nguyễn và dẫn tới cuộc “Trịnh Nguyễn phân tranh”, có thể nói được, đã bắt đầu từ năm 1558, tức năm Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa theo kế sách “an thân” của người cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ (anh của mẹ Nguyễn Hoàng là bà Nguyễn Thị Mai vợ Nguyễn Kim) để thoát khỏi âm mưu ám hại của Trịnh Kiểm và theo “chiến lược địa chính trị” của Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” để tính cuộc khởi nghiệp lâu dài[42].

3. Đàng Trong củng cố vương triều và cuộc “Nam Tiến” chinh phục Phú Yên của chúa Nguyễn:

          Người khai sinh triều Nguyễn là “Chúa Tiên Nguyễn Hoàng” (1525-1613), chấp chính vương triều 56 năm (1558-1613), là một “minh quân của thời đại”[43], cũng là người chính thức mở cuộc “Nam Tiến” lịch sử: đưa biên giới của dân tộc Việt Nam về phía nam hàng trăm cây số, từ huyện Tuy Viễn thuộc phủ Hoài Nhơn của đất Quảng Nam tới tận Đèo Cả của Phú Yên. Đây chính là “tư duy địa chính trị” mang tính chiến lược và kế sách lâu dài bền vững của một nhà kiến quốc đại tài:

“Nhưng với chúa tiên Nguyễn Hoàng có lẽ do áp lực từ phía họ Trịnh ở ngoài Bắc đã khiến ông hình dung khá cụ thể cho công cuộc mở nước trong tư duy của mình. Trước hết là củng cố Thuận Quảng để biến nó thành cơ nghiệp muôn đời của dòng họ. Và khi có điều kiện để mở rộng tầm kiểm soát đất đai về phía Nam, ông hầu như không bỏ qua. Có lẽ, trong ông ý thức Nam tiến đã rõ ràng và nó là một trong những yếu tố căn bản để đối phó với thế lực họ Trịnh mà tư lâu ông đã cảm nhận được một cách sâu sắc. Điều đó thể hiện rõ ràng trong lời trăng trối với Nguyễn Phúc Nguyên và thực tế lịch sử đã chứng minh”[44].

          Sau đây là vài cột mốc ghi nhận bước đường Nam Tiến trong giai đoạn đầu của chúa Nguyễn:

3.1. Cuộc thu phục vùng đất “phía nam Cù Mông” năm 1578 của chúa Tiên Nguyễn Hoàng:

          Như đã nói trên, vào thế kỷ 15, chính xác là vào năm 1471, vùng đất từ Thạch Bi Sơn (Đèo Cả Phú Yên ngày nay) tới đèo Cù Mông (Bình Định ngày nay) được xem như “vùng đệm”, là bức “phên dại” che chắn biên giới phía Nam của Đại Việt (Đèo Cù Mông) và chịu sự bảo hộ của quan chức Thừa Tuyên Quảng Nam[45].

          Vào năm 1578, người Chiêm nơi vùng đệm này nổi lên quấy phá và xâm lấn biên cảnh, chúa Tiên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh chinh phạt. Là một thiên tài về chính trị và quân sự, Lương Văn Chánh dẹp yên loạn Chiêm Thành và tiến hành chiêu dân lập ấp để ổn định vùng biên địa phía Nam Đàng Trong này[46].

          Tuy nhiên, đây mới chỉ là “chiến dịch Nam tiến” khởi đầu của chúa Nguyễn; và diện tích đất được thu phục này vẫn là vùng đất “xôi đậu”, chưa chính thức ghi tên trong bản đồ đất nước.

3.2. Phú yên chính thức được thành lập: 1611:

          Như đã nói ngay từ đầu, năm 1611 chính là một “cột mốc thời gian” quan trọng trong lịch sử Nam tiến của dân tộc ta. Xin nhắc lại chi tiết lịch sử được cuốn sử chính thống quan trọng của Triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Tập một, Tiền Biên Quyển I ghi lại:

“Tân Hợi, năm thứ 54 (1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lẫn biến giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”. (x. PHAN KHOANG)[47].

3.3. Phú Yên và vị trí chiến lược thời chúa Sãi:

          Sau một thời gian kể từ năm 1611, chính quan chủ sự Văn Phong lại cấu kết với người Chăm nổi lên phản loạn. Vào năm Kỷ Tỵ thứ 16 (1629), chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) sai phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào dẹp loạn, đổi phủ Phú Yên thành Trấn Biên Dinh hay Dinh Phú Yên bao gồm các đơn vị hành chánh như cũ. (x. PHẠM ĐÌNH KHIÊM)[48].

          Như vậy, kể từ sau biến cố “1629” về sau, từ khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dẹp loạn “Văn Phong”, Phú Yên đã trở thành điểm xuất phát cho cuộc hành trình “Nam tiến” của dân tộc ta tiếp diễn không ngừng. Chính vì thế, có thể nói được, Phú Yên chính là địa bàn chiến lược quan trọng và căn bản nhất trong lịch sử mở rộng biên cương và củng cố vị thế đất nước trong thế “địa chính trị” lúc bấy giờ:

“Trong công cuộc mở cõi về phương Nam của Nguyễn Phúc Nguyên, Phú Yên vừa là tiền đồn canh giữ biên thùy, là lá chắn ở phía Nam trước sự tấn công của Chiêm Thành, vừa là hậu cứ, là bàn đạp cho một bước tiến dài về phía Nam, nhất là sau khi Phú Yên trở thành dinh Trấn Biên, một đơn vị hành chánh lớn trong toàn cõi với bộ máy quản lý hành chính khá chặt chẽ như các dinh khác (một trong 7 dinh dưới sự thống quản của các chúa Nguyễn). Chính sự trưởng thành nhanh chóng của Phú Yên trong mối quan hệ mật thiết với các địa phương khác ở “Đàng Trong” đã tạo thêm sức mạnh cho chúa Nguyễn vượt qua chặng đường gian khó để đi về phương Nam”[49].

          Á thánh Anrê Phú Yên đã sinh ra, lớn lên, được rửa tội… trên mảnh đất Phú Yên của một thời “mở cõi” đó!

II. PHÚ YÊN: CON ĐƯỜNG “MỞ CÕI TIN MỪNG”

          Chúng ta vừa lượt qua đôi nét đan thanh về cuộc mở cõi địa lý của cha ông ta về phương Nam mà điểm đến đầu tiên đó chính PHÚ YÊN. Giờ đây, chúng ta thử dừng lại cũng tại vùng đất này để quan chiêm cách thế mà hạt giống Tin Mừng đã được gieo vãi và phát triển. Bởi vì, chính nơi “thửa ruộng Phú Yên” mới được canh tác và gieo trồng này đã trổ sinh một bông hoa tuyệt vời, đóa hồng tử đạo, đó là Chân phước Anrê Phú Yên!

1. Đàng Trong và bối cảnh tôn giáo tín ngưỡng:

          Trước khi dừng lại nơi “cánh đồng truyền giáo Phú Yên”, thiết tưởng chúng ta cần có một cái nhìn tổng thể và bối cảnh tôn giáo-tín ngưỡng tại Đàng Trong vào thời mở cõi của cha ông ta; đặc biệt, thời Chúa Nguyễn mở mang và xây dựng Đàng Trong những ngày đầu.

          Sau đây là những ghi nhận của tác phẩm “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian”[50]:

1.1. Người Việt du nhập tín ngưỡng của người Chàm:

“Khi từ Đàng Ngoài vào lập cư tại Đàng Trong, người Việt cũng mang theo tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Sau khi đã lập cư tại vùng đất mới, họ còn đón nhận thêm tín ngưỡng và tôn giáo của người Chàm. Người ta nhận thấy có một sự hòa hợp tôn giáo và tín ngưỡng tại vùng đất này, không những giữa người Việt với nhau mà còn giữa người Việt và người Chàm. Cụ thể như Po Ino Nagar, một nữ thần lớn của người Chàm, cũng đã được Việt hóa thành Thiên y Ana, sau đó được đơn giản hóa thành Bà Ngọc hoặc Bà.”[51].

1.2. Người Việt và việc thờ kính ông bà tổ tiên:

          Đây chính là nét đặc thù của tín ngưỡng dân gian phổ cập của Đàng Trong và cả Việt Nam lúc bấy giờ:

“Việc thờ cúng ông bà tổ tiên là một tín ngưỡng bản địa của người Việt, vốn thuộc về truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc. Vì thế, dù đi đến đâu, tất cả mọi người dân Việt đều thực hành việc thờ cúng này để thể hiện đạo hiếu. Cùng với việc thờ cúng tổ tiên và ông bà cha mẹ, họ còn có tục lệ cúng tế những người đã chết khác trong gia đình, họ hàng thân tộc hay bạn bè, và tổ chức những bữa ăn giỗ thịnh soạn có nhiều người đến dự. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, đoàn di dân còn có việc thờ cúng các vị thành hoàng và các vị nhiên thần, những đấng linh thiêng độ trì cho được an cư lạc nghiệp.”[52].

1.3. Triều Nguyễn và vai trò quan trọng của Phật giáo:

          Để giảm nhẹ ảnh hưởng của Khổng giáo trong việc hành xử chính trị thoát ly khỏi vương quyền của vua Lê (đạo quân thần), nhà Nguyễn chọn Phật giáo như giải pháp ưu tiên:

“Ngoài việc dùng tín ngưỡng và tôn giáo để ổn định dân tình trong vùng đất mới, chúa Nguyễn còn muốn dùng tôn giáo để củng cố vị trí của mình đối với toàn dân, vì tại các nước Đông Nam Á, vương quyền của các vua chúa thường được gắn liền với tôn giáo. Tuy nhiên, các chúa Nguyễn thấy rằng không thể sử dụng Khổng giáo trong thời kỳ đầu, vì những khẳng định cơ bản của Khổng giáo về đạo quân thần trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của họ Nguyễn mà có người coi như chế độ ly khai, phản lại triều đình nhà Lê. Dù vậy, chúa Nguyễn cũng không dám đi quá xa so với truyền thống của người Việt ở phía Bắc. Trong hoàn cảnh đó, Phật giáo đại thừa vốn có từ phương Bắc đã được chọn như một giải pháp tốt nhất, vì vừa đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người dân, vừa không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của người cai trị, tức chúa Nguyễn. Hơn nữa, Phật giáo đại thừa có khá nhiều vị Bồ tát, do đó không mấy xa lạ với tín ngưỡng thờ kính các thần linh nơi người Việt bình dân, cũng như nơi người Chàm đang chung sống với người Việt trên phần đất này.”[53].

          Việc dung nạp cả ba hình thái tôn giáo-tín ngưỡng đó đã cho thấy người Đàng Trong (và cả người Việt Nam nói chung), tự căn bản, có tinh thần “bao dung tôn giáo-tín ngưỡng và thực hành tâm linh cách “chiết trung”. Chính vì thế, không lạ gì, Tin Mừng Kitô giáo đã dễ dàng được du nhập vào vùng đất này[54].

2. Đàng Trong – Phú Yên đón nhận Tin Mừng:

2.1. Đàng Trong và “cột mốc lịch sử truyền giáo 1615”:

          Bỏ qua cái thời điểm “1533” với nhân vật “Inêkhu” mang tính huyền thoại mập mờ mà những “ghi chú bên lề thuộc nguồn dã lục” trong cuốn lịch sử của triều Nguyễn (Tự Đức) “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, phát hành vào thời bách hại Công Giáo[55], chúng ta dừng lại nơi một cột mốc lịch sử chính thức và quan trọng khi Tin Mừng đến với dân tộc Việt Nam:

“Nói đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, cột mốc thời gian khả tín nhất đó chính là năm 1615. Thật vậy, theo những “chứng nhân trong cuộc” (các thừa sai như Cristoforo Borri, Alexandre De Rhodes…) và các Báo cáo chính thức của Dòng Tên, thì chúng ta có chứng tích rõ ràng về thời điểm, địa điểm cũng như những nhân vật lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam: Do cuộc bách hại tại Nhật Bản, nhất là chỉ dụ cấm đạo 14.02.1614, các thừa sai bị buộc rời khỏi nước Nhật cùng với những thông tin thuận lợi và hấp dẫn của thuyền trưởng thương gia Ferdinand Costa về xứ Đàng Trong, Bề trên tỉnh dòng Macao của Dòng Tên Valentim Carvalho đã cử phái đoàn truyền giáo đầu tiên đến Đàng Trong gồm ba người: Cha Buzomi (người Ý là Trưởng đoàn), cha Diogo Carvalho và tu huynh Antonio Dias (người Bồ). Các ngài đã cập bến Đàng Trong tại Cửa Hàn ngày 18.01.1615[56](x.Một số tác giả và tác phẩm liên quan)[57].

Học giả Phạm Đình Khiêm trong tác phẩm “Người Chứng thứ Nhất” cũng đã nhắc đến “cái thuở ban đầu” đặc biệt nầy trong hành trình loan báo Tin Mừng tại Việt Nam:

“Đời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên năm thứ hai, ngày 18 tháng Giêng 1615, nhằm lễ kỷ niệm thánh Phêrô lập tòa ở La-mã, hai giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên đặt chân đến Đà nẵng: Francesco Buzomi, người Ý, và Diego Carvalho, người Bồ Đào Nha. Giáo sĩ thứ hai nầy chỉ ở ít lâu, rồi được phái qua Nhật bản và tử đạo ở đó năm 1624. Cha Bề trên Buzomi ở lại điều khiển việc truyền giáo trong 24 năm liền, đáng gọi là nhà sáng lập Giáo đoàn Đàng Trong. Hai giáo sĩ cất một ngôi nhà thờ đầu tiên ở Đà Nẵng; ngày phục sinh năm ấy (1615) các Ngài cử hành Thánh lễ đầu tiên và rửa tội cho mười giáo hữu tiên khởi. Ít lâu sau, cũng trong năm 1615, cha Buzomi lại xây ngôi nhà thờ thứ hai tại ngay thủ phủ dinh Quảng Nam với sự giúp đỡ của các giáo hữu tân tòng ở đấy, nhất là bà quí phái Gioanna. Tổng cọng một năm đầu đã có 300 tín hữu…”[58].

2.2. Dòng Tên – Cư sở Nước Mặn – Truyền giáo Phú Yên:

2.2.1. Công cuộc truyền giáo tại Việt Nam trước Dòng Tên:

          Công cuộc loan báo Tin Mừng là sứ mạng chung của toàn thể Hội Thánh được chính Đức Kitô trao phó như một “mệnh lệnh”[59]. Vì thế, mọi Kitô hữu đều có trách nhiệm thực thi sứ mạng này, tùy theo vị trí, vai trò, điều kiện, nhất là “đặc sủng” được trao ban, cho mỗi cá nhân hay đoàn thể[60].

          Vì thế, không lạ gì, trong Giáo Hội, có nhiều dòng tu đã đóng góp tích cực và hiệu quả cho công cuộc truyền giáo, như ghi nhận của tác giả BÙI KIM PHONG:

“Kỷ nguyên mới của cuộc truyền bá Công giáo được khai mở với sự thành lập các dòng tu mới vào thế kỷ XIII: Dòng Đaminh (1206), dòng Phanxicô(1209), và sau đó, vào thế kỷ XVI là dòng Chúa Giêsu hay dòng Tên (1534). Từ các dòng tu này, Giáo Hội đã có thêm đông đảo “những chiến binh”, các tu sĩ và linh mục đi truyền giáo khắp thế giới”[61].

          Riêng tại vùng Á Châu (Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản…), Đông Nam Á (Chân Lạp, Chiêm Thành, Việt Nam…), có những “dấu vết” cho thấy, ngay từ thế kỷ 16, đã có các thừa sai của các dòng tu sau đây đặt chân đến để loan báo Tin Mừng:

– Dòng Đaminh: Từ năm 1549, tại Malacca đã có 18 nhà dòng và Tỉnh dòng Thánh Giá của Đông Ấn chính thức được thành lập năm 1550. Riêng tại vùng đất Việt Nam bây giờ (bao gồm Đàng Ngoài, Đàng Trong, Champa, Chân Lạp), từ thế kỷ 16 đã có một số thừa sai Đaminh đến truyền giáo[62].

– Dòng Phanxicô: Từ thế kỷ 14-15 đã có mặt tại Trung Hoa và Ấn Độ. Vào thế kỷ 16, Goa trở thành trung tâm truyền giáo của vùng Đông Nam Á. Năm 1579, tu viện Phanxicô được thiết lập tại Manila (Philippines), Macao (Trung Hoa). Khoảng năm 1583-1586, các tu sĩ Phanxicô đã có mặt tại Đàng Ngoài[63]

– Dòng Augustinô: Hoạt động tại Đàng Trong khoảng từ năm 1595-1596. Hồi ký của linh mục Ordonnez de Cervallos 1590 có kể câu chuyện về “Công Chúa Mai Hoa”. Nhưng theo các nhà sử học, đó chỉ là chuyện hư cấu![64].

2.2.2. Dòng Tên truyền giáo tại Đàng Trong:

– Từ cái rủi đến cái may:

          Chắc chắn, theo lịch sử Dòng Tên ghi lại, Việt Nam ban đầu chưa phải là “địa chỉ” được Dòng Tên “trực chỉ truyền giáo” mà là Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản bị bách hại, Dòng Tên chuyển hướng sang Trung Hoa.

“Trung hoa là mục tiêu của mọi nỗ lực truyền giáo Kitô giáo (các dòng Phanxicô, Đaminh, Augustinô, dòng Tên) vào thế kỷ XVI. Họ nghĩ rằng, Việt Nam, láng giềng của Trung Hoa, sẽ cải đạo nếu hoàng đế và dân Trung Hoa cải đạo. Thánh Phanxicô Xaviê tán thành kế hoạch này. Sau đó, Alessandro Valignano, Kinh lược sứ dòng Tên ở Đông phương từ năm 1573, nghĩ rằng Nhật Bản nên là mục tiêu truyền giáo của dòng Tên. Khi cuộc bách hại xảy ra tại Nhật, đích nhắm của ngài chuyển sang Trung Hoa, nơi mà các cha dòng Tên là Ruggieri và Mateo Ricci đã có được vài thành công”[65].

– Việt Nam và cuộc bách hại năm 1614 tại Nhật Bản:

          Được biết, ngay từ đầu thế kỷ 17 (1601), Nhật bản đã có khoảng 500.000 tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, vào ngày 14.02.1614, một cuộc bách hại tàn khốc đã xảy đến và sau đó, khi mạnh khi yếu, kéo dài mãi cho đến thế kỷ XIX, khiến người Công giáo tại nhật gần như bị xóa sổ. Tuy nhiên, chính nhờ cuộc bách hại đẫm máu này, các linh mục, tu sĩ (thừa sai ngoại quốc lẫn bản xứ) và cả giáo dân Nhật Bản tìm đường thoát ly đến địa chỉ an toàn. Việt Nam (Đàng Trong) lúc bấy giờ chính là điểm đến[66].

– Từ Cửa Hàn, Hội An đến Nước Mặn:

          Như đã nói ở trên, phái đoàn Dòng Tên đầu tiên cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng ngày nay) ngày 18.01.1615 bao gồm hai thừa sai giáo sĩ: cha Francesco Buzomi người Ý và cha Diogo Carvalho người Bồ cùng với một tu huynh cũng người Bồ là Antonio Dias. Đây cũng chính là trụ sở truyền giáo tạm thời đầu tiên của các thừa sai Dòng Tên. Từ “căn cứ” này, các thừa sai vừa chăm sóc mục vụ cho các thương nhân Bồ tạm trú tại đây và cho cộng đồng Kitô hữu Nhật Kiều tập trung tại cửa Hội An (Faifo), cách Cửa Hàn không xa về phía Nam. Tuy vậy, cũng có một số tân tòng trở lại gia nhập Kitô giáo, trong số đó có kẻ sau này sẽ là thành viên của tổ chức Thầy Giảng xứ Nam[67].

          Năm 1616, do hạn hán nên Đàng Trong mất mùa, nạn đói đe dọa và não trạng mê tín của dân chúng được các thầy sãi lung lạc từ cầu đảo thất bại đến đỗ thừa cho “đạo mới”. Vì thế các thừa sai bị buộc phải ra đi khỏi xứ. Tuy nhiên, Chúa đóng cửa này thì lại mở cánh cửa khác. Nhờ quan Khám lý Trần Đức Hòa[68] tại Qui Nhơn cưu mang, nên các thừa sai được ông bảo trợ đưa về Qui Nhơn nhân chuyến ông về Dinh Chiêm (Dinh trấn Quảng Nam) công tác. Và cộng đoàn thừa sai Dòng Tên lúc bấy giờ bao gồm ba linh mục: cha Francesco Buzomi, cha Francisco de Pina, Christoforo Borri và tu huynh Dias đã theo chân quan Khám lý về Qui Nhơn; và đến tháng 7 năm 1618, vị quan này đã chuẩn bị cơ ngơi rộng rãi để các thừa sai “an cư” tại một nơi được gọi là Nước Mặn, cũng là “cư sở” (Residentia) chính thức đầu tiên của Dòng Tên tại Đàng Trong-Việt Nam lúc bấy giờ[69]. Về chi tiết cuộc gặp gỡ quan Khám lý Trần Đức Hòa và chuyến “trở về Qui Nhơn” của phái đoàn Dòng Tên, cũng như các chi tiết liên quan đến cư sở Nước Mặn đã được vị thừa sai trong cuộc và là nhà dân tộc học lừng danh, Christoforo Borri tường thuật khá tỉ mỉ và đầy thi vị trong tác phẩm ký sự lừng danh “Xứ Đàng Trong”[70].

          Chính từ “cư sở Nước Mặn” này mà chương trình truyền giáo tại Đàng Trong – Việt Nam được định hướng và bắt đầu hoạt động:

“Giữa năm 1618, ngay sau khi cư sở Nước Mặn được thành lập, các thừa sai họp đại hội tại đây, để hoạch định chương trình và phương pháp truyền giáo, đồng thời phân phối sứ vụ tông đồ (…). Đầu năm 1620 địa bàn truyền giáo của Đàng Trong được chia làm hai vùng do hai nhóm thừa sai ở hai cư sở phụ trách. Địa bàn Cư sở Hội An gồm các vùng phía Bắc của Đàng Trong: Quảng Nam và Thuận Hóa, dưới sự lãnh đạo của cha Marques. Địa bàn Cư sở Nước Mặn gồm các vùng phía Nam của Đàng Trong: “Quagnin, Pulocampi e Ranran”, tức Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên, dưới sự lãnh đạo của cha Buzomi”[71].

2.2.3. Cha Đắc Lộ – Anrê Phú Yên:

          Khi nói tới công cuộc loan báo Tin mừng tại Việt Nam thuở ban đầu, đặc biệt, thời của các thừa sai dòng Tên, chắc chắn không thể không nhắc đến cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), một nhà truyền giáo lớn của Giáo Hội và một nhà văn hóa lớn đối với nền văn hóa và văn học Việt Nam. Có thể tóm tắt đôi dòng về cha Đắc Lộ như sau:

Alexandre de Rhodes (1593 – 1666): Là công dân Avignon lãnh địa của Giáo hoàng (1348 – 1791)[72]. Ngài hoạt động tại Đàng Trong hai lần: Lần đầu từ năm 1624 – 1626; lần hai từ năm 1640 – 1645; tại Đàng ngoài từ năm 1627 – 1630. Ngài có công lớn nhất trong việc hình thành và kiện toàn chữ Quốc ngữ khi đích thân biên soạn và xuất bản hai tác phẩm Quốc ngữ (được xem như) đầu tiên: Tự điển “Việt-Bồ-La” và cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày”. Cả hai cuốn được in tại nhà in đa ngữ của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin tại Rôma năm 1651[73].

          Như đã nói trên, hoạt động truyền giáo tại Đàng Trong của cha Đắc Lộ tập chú vào hai giai đoạn: giai đoạn một từ 1624 – 1626 và giai đoạn hai từ 1640 – 1645. Riêng trong giai đoạn hai tại Đàng Trong, ngài đã bốn lần “ra đi và lưu lại” mà kết quả ấn tượng nhất chính là “nhóm mười thầy giảng” và cuộc tử đạo của thầy giảng Anrê Phú Yên[74].

          Chúng ta thử đọc lại chính ký sự của ngài trình bày về hai sự kiện đặc biệt này:

– Tổ chức nhóm Thầy giảng:

“Giáo dân vẫn rất sốt sắng như mấy năm về trước. Vì thế, tôi không nói gì riêng ở đây, nhưng tôi không thể không nói tới ơn Chúa ban cho tôi và đồng thời kích động mười người trai trẻ hợp tác với tôi trong việc giảng đức tin cho dân xứ này. Tất cả đều ở nhiều tỉnh khác nhau mà tới, nhưng họ chỉ có một tâm hồn thuộc về Chúa và hoàn toàn tận tụy với Giáo Hội. Trong số đó có ba người Chúa dành cho phúc tử đạo: Anrê từ tỉnh Phú Yên tới tìm tôi, Inhaxu con nhà sang trọng, vì là quan tòa, thông minh, rất thông thạo chữ Hán, nhất là rất nhân đức, một vị thánh đích thực, gốc ở tỉnh miền Bắc, sau khi chịu phép rửa tội thì không muốn rời tôi, và thực ra tôi được gặp Inhaxu thì không lấy gì làm sung sướng hơn…”. Người thứ ba là Vinxentê, từ lâu nài xin tôi cho vào số những người khác. Thân phụ anh là một giáo dân đạo cũ tỉnh Quảng Ngãi, ông đã đem đến trình tôi, mặc dù anh là cột trụ nâng đỡ gia đình và cây gậy của tuổi già. Còn bảy người khác thì cũng tương tự như ba người trên. Tất cả chúng tôi đều cùng nhau đi khắp các tỉnh, các làng các xã ở Đàng Trong. Thiên Chúa phù hộ ban ơn giúp đỡ chúng tôi và số giáo dân trong một thời gian ngắn đã thêm được hơn một ngàn”[75].

          Cũng cần nói thêm, trong lần lưu lại Đàng Trong năm 1643, cha Đắc Lộ đã cho các Thầy Giảng này cử hành “khấn công khai và long trọng trước cộng đoàn” ba điều cần thiết sau: Phụng sự Giáo Hội, không lập gia đình, vâng lời các cha dòng[76].

– Chứng nhân Anrê Phú Yên:

          Dựa theo các tư liệu của cha Đắc Lộ và các tư liệu liên quan khác cùng với những thu thập riêng trong quá trình nghiên cứu về Anrê Phú Yên, nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm đã tóm tắt về ngày sinh của vị á thánh này:

“Thầy Anrê Phú Yên đã mở mắt chào đời, một ngày trong năm 1625 đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ sáu, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cai trị xứ Nam (Đàng Trong) năm thứ 12. (…). Sử liệu không nói rõ về gia thế, chỉ cho biết rằng ông có nhiều anh em mà ông là út: cha ông chết sớm, mẹ là người Công giáo rất đạo đức, tên thánh là Gioanna, chăm lo nuôi nấng, dạy dỗ đàn con.

Còn sinh quán của ông, thực ra tài liệu của giáo sĩ Đắc Lộ chỉ ghi là tỉnh “Ranran” ở giáp giới Chiêm Thành về phía Nam mà không chỉ rõ địa phương nào. Nhờ bản đồ của giáo sĩ Đắc Lộ vẽ tỉnh “Ranran” này ở bên dưới Qui Nhơn và bên kia mũi Nai – đèo Cả, nên ta biết đó là tỉnh Phú Yên…”[77].

          Nhà nghiên cứu cố học giả Phạm Đình Khiêm cũng cho chúng ta những chi tiết về ngày nhập đạo của Anrê Phú Yên:

“Nhưng sau này, khi tường thuật cuộc “tử đạo oanh liệt” của thầy giảng Anrê, giáo sĩ xác nhận rằng: “Đúng ba năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy”.

Anrê được rửa tội ba năm trước khi chết, tức năm 1641. Năm này, giáo sĩ Đắc Lộ đến Phú Yên lần đầu (của giai đoạn truyền giáo tại Phú Yên lần thứ hai) (…). Như vậy, cậu thiếu niên Anrê chính là một trong số 90 giáo hữu tân tòng được cha Đắc Lộ rửa tội trong kỳ tĩnh tâm bốn ngày liên tiếp tại nhà nguyện của bà Mađalêna trong dinh Trấn thủ. (…). Lúc bà Gioanna dẫn đứa con 16 tuổi đến cho cha Đắc Lộ rửa tội, giáo sĩ có ngờ đâu thiếu niên ấy, “ngoài ơn Thánh Tẩy bằng nước, lại được Đức Chúa Trời ban ơn Thánh tẩy bằng máu” theo một câu nói của giáo sĩ. Khi lấy tên Anrê đặt cho thiếu niên, giáo sĩ tuy thầm mong cho thiếu niên ấy theo gương Thánh Bổn mạng, nhưng không ngờ rằng người ấy sẽ tái diễn hoàn toàn cuộc đời vị Tông đồ xưa…”[78].

          Cũng theo ký sự của cha Đắc Lộ, thì thầy giảng Anrê Phú Yên chịu tử đạo trong giai đoạn hai truyền giáo tại Phú Yên của ngài (1640-1645); chính xác là ngày 26.7.1644. Thầy giảng Anrê Phú Yên chính là “hoa quả đầu mùa” của giáo đoàn Phú Yên và là “chứng nhân tử đạo tiên khởi” (protomartyr) của Đàng Trong và của cả Việt Nam[79].

          Về cuộc tử đạo của thầy giảng Anrê Phú Yên đã được cha Đắc Lộ dành trọn một chương trong tác phẩm “Ký sự truyền giáo”[80] để lược tóm; và viết một “Bản tường trình” đầy đủ để làm chứng từ trong “hồ sơ lịch sử” chuẩn bị án phong thánh đầu tiên cho ngài[81].

“Chúa đã dành vinh quang này cho một người thanh niên mới mười chín xuân xanh tôi đã rửa tội từ ba năm nay, rồi nhận cho đi theo tôi để giúp dạy giáo lý trong chừng hai năm. Tôi không kể dài dòng ở đây câu chuyện đẹp đẽ này vì tôi đã viết thành cuốn sách bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Tôi mong hết sức cho mọi nước trên thế giới biết người đầy tớ tuyệt diệu của Chúa, để thúc đẩy họ nhận biết và yêu mến Đấng người thanh niên đã yêu mến đến chịu chết vì Người. (…). Thầy xưng tội, quỳ xuống cầu nguyện, vĩnh biệt mọi người, rồi nhanh nhẹn theo toán lính dẫn thầy tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. (…). Lính gác chung quanh. Chúng không cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào đứng cạnh thầy. Thầy vẫn quỳ dưới đất, mắt nhìn trời, miệng luôn hé mở và đọc tên Chúa Giêsu. Một tên lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó thầy Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo thầy hãy nhìn lên trời nơi thầy sắp tới và có Chúa Giêsu đón thầy. Thầy ngước mắt lên trên cao và không nhìn xuống nữa. Cũng tên lính rút giáo ra, đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần nữa như thể muốn tìm trái tim thầy. Nhưng người vô tội ấy vẫn không núng, thật là kỳ diệu. Sau cùng tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thầy lăn xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về phía bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da. Nhưng tôi nghe rất rõ cùng lúc đầu rơi khỏi cổ, thì tên thánh Giêsu không phải từ nơi miệng thầy thốt ra mà qua vết thương ở cổ, và cùng lúc hồn bay về trời thì xác lăn xuống đất…”[82]

III. ANRÊ PHÚ YÊN: CUỘC GẶP GỠ CỦA HAI ĐƯỜNG MỞ CÕI

1. Anrê Phú Yên giữa “ngã ba đường lịch sử”:

Nếu Phú Yên là danh xưng địa lý đầu tiên của vùng đất “Chiêm Thành” trở nên “Việt thuộc” vào thế kỷ 17, thì Giáo hội Việt Nam cũng rất hân hạnh có được một “người ngoại” trở thành “Kitô hữu”, một Người Con ưu tú, một Chứng Nhân đầu tiên mang tên Phú Yên. Đó chính là Á Thánh ANRÊ PHÚ YÊN, Vị Chứng Nhân Tiên khởi của Hội thánh Việt Nam và là nhân vật ghi dấu ấn “một thời mở cõi” của các Vị Thừa sai khi đem Tin Mừng cứu độ gieo trồng vào mảnh đất Việt Nam, như lời phát biểu của tác giả Cosma Hoàng Văn Đạt SJ:

“Vào thế kỷ XVII, bước chân nam tiến của dòng giống Lạc Hồng mới đến Đèo Cả. Phú Yên là tiền đồn phía nam của tổ quốc. Dinh Trấn lúc ấy đóng ở bờ sông Kỳ Lộ, gần cửa biển Tiên Châu. Hẳn là ông bà hoặc cha mẹ anh đến lập nghiệp tại vùng đất mới này, để nơi đây trở thành quê hương anh. Và Phú Yên trở thành tên anh”[83].

1.1. Con người trong “bản đồ quy hoạch” của Chúa:

          Trong cái nhìn đức tin, mọi sự đều ở trong sự “Quan phòng” kỳ diệu của Thiên Chúa. Nếu không có cuộc Nam tiến của nhà Nguyễn, với cuộc chiêu dân lập ấp thời Lương Văn Chánh 1578, với biến cố lập phủ Phú Yên thời Văn Phong năm 1611 hay việc thiết lập Trấn Biên Dinh 1629… thì chắc không có thầy giảng mang tên Anrê Phú Yên.

          Để nhận rõ vai trò quan trọng của “thế hệ Kitô hữu Anrê Phú Yên” trong việc xây dựng nền móng ban đầu cho Giáo Hội Việt Nam, chúng ta hãy nghe cha Molinari, Cáo thỉnh viên trong hồ sơ phong Á Thánh cho Thầy Giảng Anrê Phú Yên, nhận xét:

“Thực vậy, nếu để ý tới lịch sử sóng gió tại vùng địa lý này, một miền hồi thế kỷ XVII được gọi là Đàng Trong (Cocincina), người ta có thể hiểu tại sao khuôn mặt Thầy Anrê đã và vẫn còn là điểm tham chiếu có giá trị quan trọng: thực vậy, Kitô giáo được phổ biến rộng rãi, ăn rễ sâu và tiếp tục sinh động tại Việt Nam chính là nhờ công lao và hoạt động của bao nhiêu thế hệ thầy giảng, nối tiếp nhau qua các thế kỷ, trong việc phụng vụ Chúa Kitô và Tin Mừng, cả khi các thừa sai bị trục xuất và các linh mục bản xứ không thể thi hành sứ vụ vì những luật bách hại đạo.”[84].

1.2. Cái nhỏ bé đã trở thành vĩ đại:

          Trong công cuộc xây dựng nền tảng ban đầu cho Giáo hội Việt Nam, không phải Anrê Phú Yên được đánh giá “quan trọng” vì có liên hệ với những người quan trọng như Cha Đắc Lộ, hay vì Ngài có một vị trí cao trọng nào đó thuộc hàng “chức sắc” của Giáo hội. Hoàn toàn không phải thế. Cái cao trọng và độc đáo của Anrê đó chính là “Ngài thuộc đẳng cấp thấp”, là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những “bà góa với những đồng xu nghèo”, là giáo dân…!

Linh mục Roland Jacques OMI, chuyên viên sử học trong Ủy Ban Sử Học của HĐGMVN về vụ án phong Á Thánh cho Thầy giảng Anrê đã có những nhận xét chí lý:

“Khi nói đến lịch sử khởi công xây dựng Giáo Hội tại Việt Nam, người ta có thói quen đưa ra một vài nhân vật lịch sử lớn, đặc biệt là nhân vật Đắc Lộ. Điều nầy không có gì cần phải cải chính. Nhưng lịch sử của Anrê còn chứng tỏ rằng Giáo Hội cũng đã được xây đắp nhờ vào những nỗ lực của số đông giáo dân Việt Nam thuộc những thế hệ đầu tiên. Ở vào thời của Anrê, thừa sai chỉ thỉnh thoảng mới có thể đến, và không thể sống thường xuyên ở trong nước. Chính vì lý do nầy mà những  thầy giảng phải lên phiên thay thế họ. Anrê là tiêu biểu cho tất cả những thừa sai Việt Nam vô danh nầy, là những anh hùng trong cuộc sống trước khi tỏ ra anh hùng trong khi chết. Người ta không thể không nghĩ rằng chính họ là những thừa sai thực sự, vì chỉ có họ mới đủ sức bảo đảm cho sự liên tục và sự tiến triển của cộng đồng công giáo. Thử hỏi tình trạng nầy không phải giống như tình trạng ngày nay tại nhiều nơi mà sự lui tới của linh mục bị hạn chế đó sao?”[85].

2. Anrê Phú Yên và công cuộc loan báo Tin mừng tại Việt Nam:

2.1. Anrê Phú Yên: loan báo bằng cuộc sống chứng nhân:

Thuộc về thế hệ Kitô hữu xây dựng nền móng ban đầu cho Giáo hội Việt Nam, chắc chắn Anrê Phú Yên cùng với bao bạn hữu Công Giáo khác đã cảm nghiệm sâu sắc và được đốc thúc mạnh mẽ về trách nhiệm loan báo Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh địa phương, một Hội Thánh quá ư non trẻ khi phải đối diện với một nền văn hóa Khổng, Phật, Lão đã bén rễ lâu đời trên mãnh đất Việt Nam thuở ấy. Chính Đức thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, Vị Giáo hoàng tuyên phong Thầy Giảng Anrê lên bậc Á Thánh vào dịp đại Năm Thánh 2000, đã nhận rõ khía cạnh nầy trong bài giảng ngày lễ phong thánh:

“Giữa những khó khăn các tín hữu Chúa Kitô phải hứng chịu, ngài đã là một nhân chứng trung kiên của Chúa Phục Sinh vì Ngài đã không ngừng loan truyền Tin Mừng cho anh em ngài trong hội thầy giảng “Nhà Chúa”. Vì tình yêu đối với Chúa, Ngài đã dùng sức lực để phục vụ Giáo Hội qua việc trợ lực cho các Linh mục trong sứ mệnh của họ. Ngài đã kiên trung đến dâng hiến máu đào để giữ nghĩa cùng Đấng mà Ngài đã dâng hiến tất cả. Những lời Ngài luôn lặp lại trên bước đường tiến đến nơi tử đạo là những lời đã hướng dẫn và soi sáng tất cả cuộc sống của Ngài: “Chúng ta hãy lấy tình yêu đáp trả tình yêu của Chúa chúng ta, chúng ta hãy lấy mạng sống đáp trả mạng sống”[86].

          Sau đó, trong bài huấn dụ khi tiếp phái đoàn Giám Mục Việt Nam, Đức Thánh Cha lại nhấn mạnh sứ điệp và giá trị nhân chứng của á thánh Anrê Phú Yên ở giữa lòng Hội Thánh Việt Nam hôm nay:

“Do vậy trên 350 năm qua, những người Công giáo Việt Nam không bao giờ quên Nhân Chứng Tin Mừng này, Vị Tử Đạo tiên khởi của quê hương họ. Họ đã tìm thấy nơi ngài đức tin kiên định và tình yêu quảng đại cho Đức Kitô và cho Giáo hội của Ngài. Chớ gì ngày nay họ còn tiếp tục khám phá ra trong tấm gương của một người con đất Việt sức mạnh hướng dẫn người tín hữu về ơn gọi người Kitô hữu, trong việc trung thành với Giáo hội và quê hương họ. Chân phước Anrê Phú Yên, vì sự nhiệt thành nồng cháy của ngài mà Phúc âm được rao truyền, được ăn rễ sâu và được phát triển”[87].

2.2. Anrê Phú Yên: chưng nhân tiên khởi:

          Địa vị “Chứng Nhân Tiên khởi” của Giáo Hội Việt Nam được dành cho Anrê Phú Yên thật là “phải đạo và chính đáng”, chắc chắn không chỉ vì Ngài là người đầu tiên của xứ Đàng Trong “cầm cành lá vạn tuế”, nhưng còn vì “Lời chứng” của Ngài mang dấu ấn tiên phong trong bước đường hội nhập văn hóa, đã diễn ra trong một bối cảnh xã hội và Giáo hội Việt Nam ổn định và giản đơn, hòa ái và trong sáng, khác xa với bối cảnh của hai thế kỷ tiếp sau, 18,19. Chính linh mục sử gia Roland Jacques đã ghi nhận tính chất đặc biệt nầy:

“Địa vị của vị “tử đạo tiên khởi” phải thuộc về Anrê, chết 129 năm trước thánh Liêm, với lòng can cường không kém. Hơn nữa, Anrê là một người con của đất nước, mang trong mình 100% nền văn hóa của đất nước; thầy là một giáo dân Công giáo. Vì thế, chắc hẳn Anrê là tiêu biểu trực tiếp cho khối đa số vô danh của những người Công giáo Việt Nam, nhất là những người thuộc những thế hệ đầu tiên, nhờ vào sự khôn ngoan và tính kiên cường họ đã khám phá ra phương cách Việt Nam để sống đạo.

            Đối chiếu với phần lớn các vị tử đạo được tôn phong năm 1988, Anrê biểu hiện một kinh nghiệm đặc sắc và có thể là sống động hơn cho ngày nay, do bối cảnh lịch sử hoàn toàn khác biệt. Những thế hệ Công giáo tiên khởi được sinh ra trong bối cảnh của một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập đối với các thế lực phương Tây, không bao giờ Bồ Đào Nha, là nước đã gửi đi các nhà thừa sai, đã can thiệp vào công việc của Việt Nam bằng bất cứ cách nào, dù là bênh vực cho người Công giáo.

            Những đồng bào không Công giáo, đại đa số đã tỏ ra hết sức ngưỡng mộ đối với chàng trai trẻ có lòng can đảm bất khuất nầy. Họ cảm nhận được nơi Anrê tình thương mà thầy đã mang đến cho tất cả những người đồng hương của thầy. Một sự việc mà những nhân chứng đã nói đến, và họ đã đáp lại tình thương đối với thầy. Đó là một sắc thái khá độc đáo trong cái chết của Anrê. Đến thế kỷ 18 và 19 thì các tình huống và tâm trạng đã biến chuyển.”[88].

Tuy nhiên, như chúng ta vẫn thường gặp thấy trong hiện thực lịch sử cứu rỗi được tỏ bày trong mặc khải Thánh Kinh: Thiên Chúa thường hay làm những chuyện “cắc cớ”. Để chọn một Tổ Phụ cho một dòng tộc “đông như sao trời như cát biển”, Ngài đã chọn cặp vợ chồng son Abraham và Sara; để có một người lãnh đạo dân Israel ra khỏi đất Ai cập, lãnh nhận Giao ước và trở về Đất Hứa, Ngài đã chọn Môsê ngọng nghịu; để xây dựng một vương quốc hùng mạnh làm dấu chỉ và chuẩn bị cho một Vương quốc vĩnh cửu trường tồn do Con Thiên Chúa thiết lập, Ngài đã chọn người con út của Giêsê, chàng thanh niên chăn cừu Đavít với “hậu duệ thuộc hệ ngoại tình của ông vua hào hoa phong nhả nầy”. Và, để cứu Israel khỏi những thế lực hung tàn Ngài đã dùng những bàn tay liễu yếu đào tơ như Debora, Esther…; và rồi, để canh tân toàn bộ đời sống tôn giáo đã bị biến chất và sai lạc, Ngài đã dùng mỗi một ngôn sứ Êlia đơn thương độc mã đối đầu với cả một hệ thống chính trị và tôn giáo đương thời… Chưa kể, Ngài cũng không từ chối dùng cả một ông vua Cyrô ngoại giáo của Ba Tư để đưa dân Israel trong kiếp lưu đầy nô lệ trở về tái tái thiết lại quê hương và phục hồi đời sống tôn giáo.

Thiên Chúa cũng hành động “y chang” như thế, khi lịch sử cứu rỗi “sang trang”, bước vào giai đoạn của “thời viên mãn”. “Ở Nadarét có gì quan trọng lắm đâu” mà phải đề cao và tin tưởng rằng nơi đây lại xuất hiện Đấng Cứu Thế? (Ga 1,46). Thầy Giêsu nào chẳng phải là “con bác phó mộc đấy sao?” (Mt 13,55-56). Và Vị Vua Cứu Thế đã bao đời nhân loại ngóng trông đã giáng sinh cách nghèo hèn nơi hang lừa máng cỏ; đã âm thầm sống ẩn dật với cái nghề thợ mộc thấp hèn trong mái nhà ở làng quê Nadarét 30 năm; đã lang thang trên những nẻo đường cát bụi từ Galilê qua Samari đến Giuđêa để công bố một Tin Mừng xem ra nghịch lý: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, những kẻ hiền lành, những người bị bách hại…” (Mt 5, 3-12); và oái ăm hơn nữa là Vị Vua Cứu Thế đó đã chính thức đăng quang chấp chính “làm Vua” vào cái “Giờ” mà khắp nhân loại đều lắc đầu chối bỏ: Giờ của tử hình thập giá, giờ của kết án nhục hình, giờ của đánh đòn và mão gai, giờ của khinh khi nhục mạ… Vâng, chúng ta chỉ có thể hiểu được chân lý nầy khi đồng cảm với những nhận xét của thánh Phaolô:

“Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự kông ngoan của Thiên Chúa.” (1 Cr 1,22-23).

Và cái “nghịch lý của Tin Mừng” đó cứ lặp đi lặp lại trong lịch sử của Dân Chúa mọi nơi mọi thời, cho dù lịch sử ấy được viết ở Palestine với Hêrôđê, ở Rôma với bạo chúa Nêrô, ở Liên sô với Stalin, ở Trung hoa lục địa với Mao Trạch Đông, ở Việt Nam với những người như “Ông Nghè Bộ” thời Anrê Phú Yên, hay các vị vua triều Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức… Phải chăng, chính nhờ những cuộc thử thách được tính bằng “giá máu” ấy mà trên bầu trời của vương quốc Nước Trời vẫn luôn “rực sáng những vì sao”. Anrê Phú yên chính là một trong những “VÌ SAO RỰC SÁNG” ấy, một vì sao mà sự xuất hiện của nó đã tỏa sáng như một dòng hợp lưu của những dòng sông, của những con đường đang tiến về phía trước: con đường của dòng người vượt thác băng ngàn ra đi mở cõi cho giang sơn Đất Việt khang trang hơn, bát ngát hơn, và con đường của những “bước chân anh hùng quảng đại” vượt qua bao thử thách gian truân để thắp lên ánh lửa Tin Mừng cứu độ.

Như thế, chúng ta có thể kết luận mà không sợ cường điệu quá mức khi cho rằng: trong lịch sử dựng nước của cha ông vào thế kỷ 17 và trong bối cảnh thuở ban đầu gieo hạt giống Tin Mừng tại Việt Nam, Anrê Phú Yên chính là cuộc gặp gỡ của hai “Con đường mở cõi”.

PHẦN II: LINH ĐẠO “TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU”

(LINH ĐẠO Á THÁNH ANRÊ PHÚ YÊN)

Dẫn nhập: Đã có một linh đạo như thế!

          Hội thánh Việt Nam cũng như toàn thể cộng đoàn Dân Chúa hoàn vũ, không ai ai có thể phủ nhận điều nầy: TỬ ĐẠO đó chính là con đường, là cách thế tuyệt vời nhất, vĩ đại nhất để Thầy giảng Anrê Phú Yên được tôn vinh và ngưỡng mộ, được mến yêu và học đòi bắt chước. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào cuộc đời, cho dù chỉ là một cuộc đời đơn sơ, khiêm tốn, chỉ võn vẹn 19 xuân xanh, chúng ta có thể nhận ra nơi người “thanh niên tân tòng” nầy những nét đẹp tinh thần và nhân bản tuyệt vời và những gợi ý sâu xa cho cuộc sống đức tin của Dân Chúa, không kém gì những nhà tu đức, những vị thánh Tiến sĩ lừng danh của Giáo hội. Chúng ta có thể mạnh mẽ xác nhận với nhau rằng: Đã có một “Linh đạo Anrê Phú Yên” ở giữa lòng Hội thánh.

          Nếu ở giữa lòng Hội thánh đã có một thánh nữ trẻ, Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873-1897), đã chọn “TÌNH YÊU” như “chìa khoá” mở lối vào cuộc hành trình nên thánh của mình, như chính thánh nữ đã trình bày trong “Tác phẩm Nhật ký thiêng liêng của Ngài”[89]:

“Đức ái đã mang lại cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo hội là một thân thể, gồm nhiều chi thể, thì không thể nào thiếu được cơ phận quan trọng nhất. Giáo hội có một trái tim và trái tim ấy được nồng cháy tình yêu. Chỉ có “Tình yêu” mới có thể huy động các chi thể của Hội thánh. Nếu “Tình yêu” tắt lịm thì các Tông đồ không còn rao giảng Tin mừng nữa, các vị Tử đạo sẽ không còn dám đổ máu đào nữa… Con hiểu rằng “Tình yêu” bao gồm tất cả mọi ơn gọi… Lúc đó, trong niềm vui tột đỉnh con thốt lên: Lạy Chúa Giêsu Tình Yêu của con… con đã tìm được ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là Tình yêu!” (Thủ bản B, 3v)[90].

          Dĩ nhiên, con đường nên thánh được xây dựng trên nền tảng “Tình yêu” không là một phát kiến mới của thánh nữ Têrêsa, nhưng chỉ là một sự đào sâu, khai thác chính suối nguồn của mọi linh đạo, của mọi con đường nên thánh là kho tàng Lời Chúa, là giáo huấn của Thầy Chí Thánh Giêsu[91], là Tin mừng, là giáo huấn của các thánh Tông đồ[92]

          Trong buổi đầu Tin mừng vừa đến với quê hương Việt Nam “đang thời mở cõi”, đã có một Kitô hữu tân tòng, một Thầy giảng, cũng đã sống và làm chứng cho “TÌNH YÊU” bằng một sự “ĐÁP TRẢ” tuyệt vời là chính cuộc “Tử Đạo” oai hùng của mình. Đó chính là Thầy giảng Anrê Phú Yên, hoàn tất hiến lễ tình yêu và chiều ngày 26.7.1644 và được Giáo hội tuyên phong Á Thánh ngày 5.3.2000 mà di chúc thiêng liêng của ngài còn lưu lại có thể tóm tắt cả một linh đạo: linh đạo tình yêu đáp trả tình yêu:

“Hỡi anh chị em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống…”

“Hỡi anh chị em, ta hãy trung tín cùng Đức Chúa Trời cho đến chết ; cho đến chết, không một điều gì có thể dập tắt lòng thương mến Chúa Giêsu Kitô trong trái tim ta.”

“Hỡi anh chị em, chúng ta hãy giữ nghĩa cùng Đức Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”[93].

          Để thêm chút hành trang cho cuộc hành trình nên thánh, chúng ta có thể mày mò tìm kiếm đôi nét đan thanh về linh đạo nầy mà có lẽ đã ẩn tàng đâu đó trong một mệnh đề duy nhất: “TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU”.

I. CUỘC ĐỜI VÀ TIẾN TRÌNH PHONG THÁNH[94]:

 

1. Lược tóm cuộc đời Á thánh Anrê Phú Yên:

– Ngày và nơi sinh: Á Thánh Anrê Phú Yên sinh khoảng năm 1625, gần dinh “Trấn biên”, thuộc Phú Yên, vùng đất giáp giới Chiêm Thành. Hiện nay vùng nầy thuộc thôn Hội Phú, xã An Ninh Tây, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong địa bàn mục vụ của Giáo xứ Mằng Lăng, Giáo hạt Phú Yên, Giáo phận Qui Nhơn.

– Cha mẹ: Chỉ biết mẹ Ngài là Bà Gioanna. Có lẽ cha Ngài mất sớm. Bà Gioanna được Cha Đắc Lộ ca ngợi là “rất nhiệt thành”, đã chăm sóc, giáo dục Anrê về đường đức hạnh cũng như học vấn.

– Bối cảnh xã hội: Á Thánh Anrê sinh sống vào thời “Hậu Lê” và đất nước bắt đầu bước vào cuộc phân tranh Nam-Bắc. Từ sông Gianh trở ra gọi là “Xứ Bắc” hay Đàng Ngoài, dưới quyền cai trị của vua Lê – Chúa Trịnh. Từ sông Gianh trở vào (tới Phú Yên), gọi là “Xứ Nam” hay Đàng Trong, do Chúa Nguyễn cai trị. Đây cũng là lúc mở đầu cuộc Nam tiến của dân tộc ta.

– Bối cảnh Giáo hội: Đây là giai đoạn khởi đầu của Hội thánh tại Việt Nam. Nhờ công cuộc truyền giáo của các Thừa Sai dòng Phanxicô, Đa Minh, nhất là Dòng Tên, từ Bắc chí Nam đều có các cộng đoàn kitô hữu. Cộng đoàn các “Thầy Giảng” là khí cụ hữu hiệu trong công tác mục vụ lúc bấy giờ.

– Gia nhập Hội Thánh: Á Thánh Anrê Phú Yên được Cha Đắc Lộ rửa tội năm 1641 cùng với một số tín hữu khác.

– Gia nhập đoàn Thầy Giảng: Khoảng đầu năm 1642, Anrê được Cha Đắc Lộ cho gia nhập đoàn Thầy Giảng, một cộng đoàn giáo lý viên với lời khấn suốt đời phụng sự Hội thánh, sống độc thân và vâng phục Bề Trên.

– Đặc điểm nhân cách của Á Thánh Anrê: Hiền lành, ngay thật, trong sạch. Luôn tận tâm vui vẻ phục vụ anh em, không nệ khó.Cùng với tâm hồn đạo đức thánh thiện là một trí khôn minh mẩn, nhạy bén.

– Bị bắt: Á Thánh Anrê bị bắt vào ngày 25.07.1644 tại nhà của các cha Dòng Tên tại Hội An khi lính của ông Nghè Bộ ập vào đây để truy tìm thầy giảng Inhaxu. Sau đó Anrê bị điệu về giam tại dinh trấn Quảng Nam cùng với một giáo dân khác cao tuổi tên là Anrê Sơn.

– Trong tù ngục: Từ khi bị bắt, mặc dù chịu nhiều đau khổ trong cảnh tù tội, Anrê vẫn hân hoan tuyên xưng đức tin, luôn miệng rao giảng, động viên mọi người tin yêu Chúa Giêsu và quí trọng hạnh phúc đời đời.

– Bị kết án tử hình: Ngày 26.07.1644: Quan Trấn thủ kết án tử hình Anrê, vì Người không chịu bỏ đạo. Nghe tin nầy, Anrê hớn hở vui mừng. Ngài được Cha Đắc Lộ giải tội và ban Của ăn đàng rồi hiên ngang theo toán lính ra “Gò Xử”, một gò hoang dành để xử tội các phạm nhân, cách thành Kẻ Chàm (Thành Chiêm) chừng nửa dặm.

– Khải hoàn vinh thắng: Anrê Phú Yên bình thản đón nhận cái chết vào lúc hoàng hôn ngày 26.07.1644, dưới sự chứng kiến đầy cảm phục, yêu thương, tôn kính của Cha Đắc Lộ và đông đảo anh chị em tín hữu cùng nhiều người ngoại trong vùng. Ngài bị đâm ba nhát giáo và chém hai nhát mã tấu. “Giêsu” là âm thanh cuối cùng phát ra trước khi đầu Ngài lìa xác. Nơi Ngài bị xử ngày nay chỉ còn một gò đất nhỏ dùng làm lò gạch, thuộc giáo họ Phước Kiều, giáo xứ Vĩnh Điện, Giáo phận Đà Nẵng.

– An táng: Xác Á Thánh Anrê được Cha Đắc Lộ đem về nhà cha ở Hội An. Sau đó không lâu, Ngài gởi xác Anrê về Ma Cao. Riêng thủ cấp của Á Thánh thì được Cha Đắc Lộ mang theo bên mình cho đến khi được cất giữ tại nhà Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên ở Rôma.

2. Lược tóm tiến trình phong á thánh:

– 26.07.1644: Thầy Giảng Anrê Phú Yên chịu tử đạo tại Kẻ Chàm, Quảng Nam.

– 01.08.1644: Cha Đắc Lộ viết tờ báo cáo chính thức bằng tiếng Bồ Đào Nha cho Cha Bề Trên Cả Dòng Tên tại Rôma về cuộc tử đạo anh dũng của Thầy Anrê Phú Yên.

– 15.08.1644: Giáo phận Macao đón tiếp long trọng xác Thày Anrê và mai táng trong nhà thờ Thánh Phaolô tại thành phố nầy.

– 05.10.1644: Linh mục Antôn de Torres, S.J. tường trình chi tiết (tiếng Bồ) về vụ án Thầy Anrê Phú Yên và kể chuyện về cuộc đón tiếp xác Thầy tại Macao.

– 12.12.1644: Giáo phận Macao mở án phong thánh cho Thầy Anrê.

– 25.02.1645: Vụ án Thầy Anrê theo cấp bậc giáo phận đã xong, gởi về Rôma ngày 23.08.1649, vụ án chính thức được đưa vào Bộ Phong Thánh, Prot. Số 1022.

– 15.01.1652: Vụ án được Bộ Truyền Giáo công khai chấp nhận ủng hộ.

– 1773 – 1814: Dòng Tên bị ngưng hoạt động. Vụ án bị đình trệ.

– 1829 – 1832: Dòng Tên được tái lập tại Bồ Đào Nha.

– 1899: Mở lại Vụ án Thầy Anrê Phú Yên.

– 06.11.1963: Các Giám Mục Việt Nam dự Công đồng chung Vatican II (1962 – 1965) xin Toà thánh mở lại vụ án.

– 11.11.1963: Bộ Phong Thánh ra quyết nghị số 191, đòi đích danh vụ án Thầy Anrê Phú Yên tử đạo tại Kẻ Chàm ngày 26.07.1644, phải được duyệt qua Uỷ Ban Lịch Sử của Bộ trước đã. Và như vậy, cùng ngày đó, vụ án do Giáo phận Macao (1645) được chuyển qua Ban Sử Học (của Bộ Phong Thánh) để được duyệt lại.

– 22.05.1992: Nghị quyết về phong thánh theo giáo luật mới: Các vụ án trước đây mới xong phần “dự thẩm”, phải giao về các Giáo phận địa phương để được điều tra về phương diện sử học. Hồ sơ Thầy Anrê lại phải “làm lại từ đầu”.

– 1997: Uỷ Ban Sử học về vụ án Thầy Anrê được thiết lập tại thủ đô Rôma do các Giám mục Việt Nam dịp về Rôma viếng mộ Hai Thánh Tông Đồ (Ad Limina). Hiện diện trong buổi thành lập nầy có: ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, ĐGM Phaolô Huỳnh Đông Các, ĐGM Phêrô Nguyễn Quang Sách. Thành viên của “Uỷ Ban Sử Học” gồm có: Đức Ông Đaminh Vũ văn Thiện (Chủ tịch), LM Yvon Beaudouin (Thành viên), LM Roland Jacques, tiến sĩ giáo luật Đại học Paris, chuyên viên ngữ học và văn hoá Việt Nam tại viện ngữ học và văn hoá Đông Phương tại Paris (Thành viên).

– 1998: Hồ sơ về cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên hoàn tất về phương diện sử học do công trình của Cha Roland Jacques và được trao cho Cha P. Molinari, Cáo Thỉnh viên Dòng Tên để chính thức đệ trình Bộ Phong Thánh.

– 27.01.2000: Bộ Phong Thánh quyết định nhìn nhận cuộc tử đạo của Thầy Anrê Phú Yên.

– 08.02.2000: Bộ Ngoại giao Toà Thánh gởi fax cho ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, Chủ tịch HĐGMVN thông báo chính thức về việc ĐTC Gioan Phaolô II quyết định tôn phong chân phước cho Thầy Anrê Phú Yên vào ngày 05.03.2000 tại Rôma qua bức điện thư của Đức Tổng Giám mục Louis Tauran. Đồng thời Bộ Ngoại Giao Toà thánh cũng gởi thông báo cho Ngài Đại Sứ Việt Nam tại Italia về quyết định trên.

– 05.03.2000: Tại Quảng trường Thánh Phêrô, trung tâm giáo đô Rôma, trước sự quan chiêm của toàn thể thế giới, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II long trọng tôn phong Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên Bậc Á THÁNH.

 

II. LINH ĐẠO TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU

 

1. Một TÌNH YÊU TRUNG THÀNH với Chúa Giêsu và với căn cước Kitô hữu:

          “Trung tín” đó chính là sứ điệp, là lời trăn trối cốt yếu và thường xuyên mà Á Thánh Anrê Phú Yên đã để lại cho chúng ta trong những phút giây cuối cùng của Ngài, những phút giây Ngài đang đối diện với những cực hình và thử thách; những phút giây thử thách đã khiến bao người trong chúng ta không đủ sức để trụ vững và đành ngã lòng phản bội.

          Câu chuyện tử đạo của ba thánh: Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đình Văn Đạt đã từng nói lên kinh nghiệm đó[95]. Trong khi đó, rất nhiều người trong chúng ta miệng thì nói “yêu” mà chưa chắc “yêu thật sự”, như cách diễn tả hài hước trong một bài thơ của Bob Marley![96].

          Nhưng Anrê Phú Yên thì khác. Tình yêu của Ngài dành cho Chúa Giêsu, phải chăng trước hết là “Một Tình Yêu Trung Tín”.

          Chúng ta có thể đọc thấy rõ tư tưởng nầy qua rất nhiều chứng từ còn để lại:

1.1. Bản Tường Trình của Cha Đắc Lộ gửi cho các Bề trên ở Macao:Viết tại Hội An ngày 1.8.1644 (Tức hơn 1 tháng sau cuộc tử đạo của Thầy giảng Anrê):

“… Và ông Nghè Bộ than phiền về nhưng câu trả lời rất thẳng thắn như thế, và nói rằng: “Giả sử anh ta nói với tôi rằng mình là người nghèo và ở với Cha để có gì mà ăn, thì tôi đã tha thứ và thả anh ra. Nhưng trái lại, anh đã táo bạo trả lời tôi rằng anh là Kitô hữu, và thờ lạy Chúa trời đất, và không có gì trên trần gian làm cho anh từ bỏ đạo thánh anh đã theo, và vì thế anh sẵn sàng hiến mạng sống, chấp nhận mọi hình phạt người ta muốn giáng xuống cho anh! Vì vậy, – Ông Nghè Bộ nói – vì anh ta điên đến độ ăn nói như thế, nên anh phải chết”; ông đã gọi là điên rồ sự khôn ngoan chân thực của Chúa Thánh Linh nói qua miệng Thầy”[97].

1.2. Biên Bản cuộc điều tra cấp giáo phận (Macao, 12- 1644 đến 2- 1645):

– Nhân chứng II: Francisco de Azevedo Teixeira:

Trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy trả lời: “Tôi tuyên xưng Đạo Chúa Kitô; tôi là Thầy giảng của Cha Đắc Lộ, và tôi lo việc rửa tội cho người lương tại nước này, tôi là Kitô hữu từ nhiều năm nay, và tôi sẵn sàng hiến mạng sống vì Đạo Chúa Kitô mà tôi tuyên xưng”. Và Ông Nghè Bộ bảo Thầy hãy từ bỏ Đạo Chúa Kitô, Đạo mà Thầy gọi là đạo mới, rồi ông sẽ tha mạng cho Thầy, nhưng Thầy đáp: “Tôi sẽ không làm điều như thế, và nếu Quan muốn giết tôi, tôi sẵn sàng trả bằng mạng sống món nợ của tôi đối với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Thành tôi”.

Vị tử đạo vẫn hướng mặt lên trời, ngã về phía bên phải, miệng vẫn kêu tên Giêsu Maria nhiều lần; và khi Thầy còn ở trong tình trạng đó, một trong những người lính cầm đao, chém đứt cổ trong lúc vị tử đạo còn sống, và Thầy tiếp tục kêu tên cực trọng Giêsu Maria, và chính tôi thấy điều này: sau khi cổ Thầy bị chém lìa, người ta vẫn còn có thể nghe được tên Thánh Giêsu Maria, trong hơi thở vọt ra với máu.

Và ngoài ra, tôi tuyên bố rằng trước khi bị dẫn tới nơi tử đạo, trong lúc còn bị giam trong tù, Thầy Anrê đã nói với đông đảo tín hữu Kitô hiện diện: “Anh chị em hãy can đảm lên và hãy kiên trì, đừng sợ thấy tôi phải chết. Tôi không chết vì một tội nào đã phạm, nhưng chính vì tôi là Kitô hữu, và vì tôi dạy Đạo Chúa Kitô. Và tôi trả bằng mạng sống món nợ của tôi đối với Chúa Giêsu”[98].

– Nhân chứng III: Antonio Pecanha de Mendonca:

“Trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy Anrê đã can đảm tuyên xưng nhiều lần rằng: “Tôi là Kitô hữu, và tôi luôn sẵn sàng hiến mạng sống vì Đạo Chúa Kitô”.

… Bấy giờ một đao phủ khác, hay người lính, đến gần, tay cầm đao, và chém lìa cổ Thầy Anrê, trong khi Thầy luôn cương quyết và đầy lòng kiên trì, miệng luôn kêu tên Giêsu và Maria, cho đến khi người ta chém đầu Thầy. Và Thầy vẫn luôn nói rằng mình không chết vì là trộm cắp hay vì đã phạm một tội ác nào khác, nhưng chỉ vì mình là Kitô hữu. Thầy dùng tiếng bản xứ để khuyên các tín hữu Kitô khác hãy vững tin, và đừng sợ vì cái chết của Thầy. Tất cả những điều đó, tôi đã nghe được, và những người hiện diện đã giải thích cho tôi điều đó”[99].

– Nhân chứng IV: Manoel da Fonseca:

“Tôi đã thấy Thầy ở trong một ngôi nhà tranh có lính  canh gác, và cổ đeo gông. Thực vậy, trước đó, Thầy đã trả lời với Quan Nghè Bộ: ‘Tôi là Kitô hữu, và nếu vì điều này mà tôi đáng bị hình phạt nào, thì tôi sẵn sàng’.

Trong lúc ấy (khi hành quyết), Thấy Anrê quỳ xuống, mắt hướng về trời. Điều ấy tôi thấy tận mắt; và tôi đã nghe những người đứng gần Thầy kể lại rằng Thầy đang kêu tên cực trọng Giêsu và Maria.

Bản án được thi hành, và được tuyên bố, chỉ vì lý do Thầy Anrê là Kitô hữu, chứ không phải vì Thầy đã phạm một tội ác nào. Và chính Thầy Anrê đã tuyên bố công khai điều đó, và cả tôi cũng đã nghe Thầy Anrê tuyên bố: ‘Tôi chết vì là Kitô hữu, chứ không phải vì tội ác nào đã phạm’”[100].

– Nhân chứng VI: Domingos  Rodrigues:

“Lúc người ta muốn trói Thầy lại, Thầy nói: ‘Xin đừng trói tôi, tôi là Kitô hữu và tôi không chối bỏ điều ấy, và vì thế tôi sẽ không chạy trốn đâu’. Cũng vậy, tôi nghe những người Bồ Đào Nha nói rằng khi bị điệu tới Kẻ Chàm, trước mặt Quan Nghè Bộ, Thầy Anrê đã công khai tuyên bố trước mặt quan mình là Kitô hữu và sẵn sàng chịu mọi hình phạt vì điều ấy.

Và trong khi Thầy Anrê vẫn tiếp tục kêu tên cực trọng Giêsu và Maria… Thầy khuyên bảo những người hiện diện rằng: ‘Tôi rất vui mừng và mãn nguyện được chết vì là Kitô hữu ; đây không phải là chết, nhưng là được sống đời đời, và nếu có ai trong anh chị em bị cùng số phận như vậy, thì hãy hết sức cảm tạ Thiên Chúa, và hãy kiên cường trong niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tôi cũng đang tuyên xưng đây’. Thầy Anrê đã bị sát hại chỉ vì Thầy là Kitô hữu, chứ không phải vì một tội ác nào khác đã phạm ; đó là điều mà chính Thầy Anrê đã tuyên bố công khai, và Thầy cũng nói trước khi chịu chết: ‘Tôi chết trong tư cách là Kitô hữu, chứ không phải vì tội ác nào cả’”[101].

– Nhân chứng VII: Agostinho da Silva:

“Khi (Quan Nghè Bộ) hỏi Thầy xem có phải là Kitô hữu không, Thầy can đảm tuyên xưng điều đó và nói: ‘Tôi sẵn sàng nhận mọi hình phạt người ta muốn giáng cho tôi chỉ vì tôi là Kitô hữu’. Thầy khuyến khích và khuyên bảo các tín hữu Kitô khác hiện diện: ‘Anh chị em đừng buồn vì cái chết của tôi, bởi lẽ tôi không chết vì một tội ác nào đã phạm, nhưng chính vì tôi là Kitô hữu; và anh chị em hãy kiên cường trong đức tin’”[102].

– Nhân chứng XIV: Pero Pinto de Figueiredo:

“Trước mặt quan, Thầy đã can đảm tuyên xưng: ‘Tôi là Kitô hữu, và lý do này tôi sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa Kitô’. Thầy đã bị kết án tử hình chỉ vì là Kitô hữu, và vì đã can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu. Và chính tôi, tôi đã thấy rằng Thầy Anrê hài lòng và tuân phục ý Chúa, chấp nhận chết vì đức tin thánh và vì Đạo. Và tất cả những điều ấy, chính tôi đã thấy, vì tôi có mặt lúc đó, và tôi đã nói chuyện với Thầy Anrê trong nhà tù nơi Thầy bị giam giữ. Thầy bị giết chết bằng những ngọn giáo và bị chém lìa cổ; trong lúc ấy, Thầy Anrê tiếp tục kêu tên Giêsu và tuyên xưng niềm tin nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta cho đến khi chết; và trước đó, Thầy đã khuyên bảo các tín hữu Kitô có mặt hãy kiên cường trong đức tin”[103].

          Chúng ta thấy đó: trung thành với Chúa Giêsu, và với “căn cước Kitô hữu” cho đến chết đó chẳng phải là một linh đạo tuyệt vời sao. Và chúng ta còn thấy gì nữa trong “Tình yêu đáp trả tình yêu của Ngài”.

2. Một TÌNH YÊU CAN ĐẢM đón nhận thập giá:

          Ngôn ngữ của ca dao Việt Nam đã diển tả nét đẹp tuyệt vời của tình yêu bằng thái độ chấp nhận hy sinh:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,

thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua…

Chàng ơi cho thiếp theo cùng,

Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam,…

Ở giữa lòng Hội thánh Việt Nam, chúng ta cũng khám ra ra trong tình yêu của Á Thánh Anrê dành cho Chúa Giêsu và Nhiệm Thể của Ngài đó là “Một tình yêu can đảm đón nhận thập giá”.

          Chúng ta lại trở về với các nhân chứng trong cuộc điều tra phong thánh cho Ngài:

– Nhân chứng V: Antonio Mendes:

“Thầy Anrê đã trả lời quan một cách rất can đảm: ‘Tôi là Kitô hữu, và tôi rất sẵn sàng hiến mạng vì Chúa Kitô’. Và lời tuyên xưng đức tin này đã làm cho quan nổi giận, ông giam Thầy vào tù với gông mang trên cổ. Bản án này, Thầy Anrê chấp nhận với nét mặt hân hoan và tươi cười; Thầy nói: ‘Tôi rất mãn nguyện vì được trả món nợ của tôi đối với Đức Giêsu Chúa chúng ta’”[104].

– Nhân chứng XVIII: Luis de Brito:

“Quan Nghè Bộ hỏi xem Thầy Anrê có phải là Kitô hữu không và Thầy can đảm đáp: ‘Vâng, tôi là Kitô hữu và tôi sẵn sàng chết vì Đạo Chúa Kitô’. Thầy đã bị một người lính dùng những nhát giáo đâm thâu qua và một người lính khác chém lìa cổ. Trong lúc ấy, Thầy tiếp tục tuyên xưng đức tin nơi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và khuyên bảo các tín hữu Kitô khác hãy kiên cường giữ vững đức tin”[105].

– Nhân chứng XIV: Pero Pinto de Figueiredo:

“Trước mặt quan, Thầy đã can đảm tuyên xưng: ‘Tôi là Kitô hữu, và lý do này tôi sẵn sàng hiến mạng sống vì Chúa Kitô’. Thầy đã bị kết án tử hình chỉ vì là Kitô hữu, và vì đã can đảm tuyên xưng mình là Kitô hữu. Và chính tôi, tôi đã thấy rằng Thầy Anrê hài lòng và tuân phục ý Chúa, chấp nhận chết vì đức tin thánh và vì Đạo”[106].

          Với các nhân chứng vừa nêu, chúng ta đều thấy trong các lời chứng của họ đều có từ “Can Đảm” khi nhắc đến cuộc tử đạo của Á Thánh Anrê.

          Ước gì ngày hôm nay, nhân đức “can đảm” nầy tồn tại và phát triển nơi tất cả chúng ta, đặc biệt nơi giới trẻ, nơi các gia đình trẻ. Bởi chưng, chúng ta đang sống trong một môi trường xã hội mà sự “sợ hãi” thường xuyên đe dọa và muốn triệt tiêu niềm hy vọng và vui sống. Sợ sinh nhiều con, sợ mất việc làm, sợ thi rớt, sợ thiếu ăn thiếu mặc, sợ khổ, sở bệnh, sợ phản bội, sợ bỏ rơi, sợ mất tình, mất của…

          Nếu Đức thánh Giáo hoàng G.P II đã từng hiệu triệu Dân Chúa và nhân loại: “Anh chị em đừng sợ”[107], thì trên 300 năm trước, người thanh niên Việt Nam Anrê Phú Yên cũng đã nói với chúng ta: “Anh em hãy can đảm giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu, cho đến hết hơi, cho đến trọn đời…”. Và để có một “tình yêu can đảm” đó, chắc chắn Anrê đã luôn sống trong một cung cách ứng xử rất nhân bản, rất tình người. Và đó chính là nét đặc trưng thứ ba trong “tình yêu đáp trả của Ngài”:

3. Một TÌNH YÊU BIẾT ƠN và đáp trả:

          Tình yêu của Anrê Phú Yên dành cho Chúa Giêsu là một tình yêu hiếu thảo, biết ơn, một tình yêu sẵn sàng đáp trả đến tận cùng. Chúng ta nhận ra điều đó qua các chứng từ sau:

– Di chúc thiêng liêng sau cùng Của Á Thánh Anrê Phú yên:

“Hỡi anh em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống… Anh chị em thấy rõ tôi đây bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn cướp, giết người, hay làm thiệt hại ai, mà vì tôi đã nhìn nhận Chúa Tể trời đất và Con Một Người xuống thế chịu chết chuộc tội cho chúng ta. Mọi sự chúng ta có đều do nơi Người. Thế mà người ta lại muốn tôi xúc phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người ta bắt tôi phải chịu, tôi chỉ sợ lửa hỏa ngục đời đời là hình phạt dành cho kẻ từ chối không tin thờ Chúa Giêsu Kitô là Đức Chúa Trời thật. Hỡi anh chị em, hãy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời muốn ban cho anh chị em, phải liệu sao cho khỏi bị xử phạt đời đời”.

“Hỡi anh chị em, ta hãy trung tín cùng Đức Chúa Trời cho đến chết; cho đến chết, không một điều gì có thể dập tắt lòng thương mến Chúa Giêsu Kitô trong trái tim ta”.

“Hỡi anh chị em, chúng ta hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”[108].

– Bản tường trình của Cha Đắc Lộ:

“Người ta cũng nhận xét  điều này: Thầy Anrê nhiệt thành chỉ nghĩ đến một điều: Cầu xin Chúa ban cho mình được ơn lấy tình yêu đáp trả tình yêu cho đến cùng; vì vậy, Chúa đã muốn rằng qua năm vết thương, Thầy cũng hiến mạng sống vì tình yêu Chúa, Đấng đã từng bày tỏ tình yêu vô biên đối với chúng ta qua năm vết thương cực trọng mà Ngài đã muốn chúng được ghi khắc trong thân xác cực thánh của Ngài.”… “Tôi hết sức mong đợi mọi người trên thế giới được biết người đầy tớ tuyệt diệu của Chúa, để thúc đẩy họ nhận biết và yêu mến Đấng bạn trẻ này đã yêu mến đến chịu chết vì Người.”[109].

          Nếu “biết ơn” và “đáp trả” như là thái độ hiếu thảo dành cho Thiên Chúa, một thái độ không thể thiếu trong đời sống đức tin mà Đức Kitô đã từng nhắc nhở: “Còn chín người kia đâu, sao không thấy tạ ơn Thiên Chúa…?” (Lc 17,17), thì Á thánh Anrê Phú Yên còn nêu bật cho chúng ta một thái độ, một nhân đức khác nhắm tới quan hệ người với người, bắt nguồn từ chính mẫu gương của Thầy Chí Thánh Giêsu khi Người cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Vâng, tình yêu đáp trả của Á Thánh Anrê Phú Yên chính là một “tình yêu khiêm hạ, phục vụ”.

4. Một TÌNH YÊU KHIÊM HẠ, phục vụ:

          Thật vậy, những giá trị của Tin mừng, của Tám Mối Phúc Thật đã được Anrê Phú Yên viết lại bằng chính cuộc sống giữa đời thường, đó là khiêm hạ, khó nghèo, phục vụ… Chúng ta có thể nhận rõ chiều kích linh đạo trên qua các thuyết minh sau đây: 

– Sắc lệnh của bộ phong thánh tuyên phong chân phúc hay là Bản tuyên bố về cuộc tử đạo của Tôi tớ Chúa Anrê Thầy giảng giáo dân (1625- 1644):

Thầy đã được nhận vào trong tổ chức của Cha với tư cách là giáo lý viên (Thầy giảng) và Cha đã giúp Thầy kiên trì trong đức tin. Ngày 31.07.1643, cùng với một số đồng bạn, Thầy tận hiến đi phục vụ Giáo hội suốt đời, tức là nhập tổ chức một số giáo dân chuyên cần đi giúp các Linh mục trong việc truyền giáo, hay là – trong trường hợp cần thiết, khi không có Linh mục – họ lo bảo toàn tín ngưỡng của giáo dân và cổ võ người bên lương trở về tòng đạo. Anrê, Tôi tớ Chúa, tiến bước rất mau trên con đường trọn lành: khiêm tốn, công minh và bẩm tính sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là những người đau ốm. Cha Đắc Lộ, biết rõ Anrê, đã minh chứng: “Tôi có thể quả quyết chưa gặp một tập viên, hay một tu sĩ nào đã nuôi những tư tưởng cao đẹp và có tâm hồn trong trắng như thế”[110].

– LM. DƯƠNG HỮU NHÂN, (ROLAND JACQUES) OMI, Anrê Phú Yên và Giáo hội Việt Nam:

“Một năm sau, Anrê xin được thu nhận vào nhóm các thầy giảng giáo lý do cha Đắc Lộ mới thành lập. Vì tuổi còn trẻ, cần phải được hoàn tất chương trình đào tạo, Anrê được gửi gắm cho vị quan thuộc nhóm thầy giảng tên là Inhaxiô, một người được vị thừa sai tin cậy và là trụ cột của cộng đồng Công giáo còn non trẻ. Anrê tiến triển vượt bậc trong việc học các kinh sách truyền thống, nhất là về đức tin Kitô giáo, đồng thời đảm nhận những công việc thấp hèn nhất để phục vụ nhà Chúa và luyện tập công tác giảng dạy”[111].

– LM. PHAOLO MOLINARI S.J, Thỉnh nguyện viên án phong chân phước cho Thầy Anrê:

“Khi để ý tới những điều đó, ta sẽ không ngạc nhiên khi đọc thấy một số nhân chứng kể lại trong cuộc Điều Tra về sự tử đạo của Thầy Anrê. Một số nhân chứng ấy đã ba lần gặp Thầy Anrê trong nhà của cha Đắc Lộ, nhân dịp họ du hành đến Đàng Trong; vì thế, họ có thể quan sát cách thức Thầy phục vụ cộng đoàn ở Hội An; lòng nhiệt thành xả thân của Thầy, với tất cả lòng trung thành và hăng say, trong việc giảng dạy đức tin Kitô cũng như trong việc cử hành phụng tự của nhóm các tín hữu. Rồi chính Thầy cũng được nhiều người biết đến như một tín hữu Kitô siêng năng lãnh nhận bí tích Thống Hối và Thánh Thể”[112]

          Trong một thế giới mà “chủ nghĩa cá nhân” và cuộc sống bon chen ích kỷ đã trở thành như một qui luật ứng xử thông thường, thì “tình yêu phục vụ” của Á Thánh Anrê Phú Yên hôm nay vẫn sáng lên như “viên ngọc quí”, như đuốc sáng, như sao mai soi rọi cho muôn người, cho tất cả chúng ta.

          Và chúng ta cũng biết rằng: “cách cho luôn quí hơn của cho”, cách phục vụ vẫn có giá trị hơn hành vi phục vụ cho dù nhỏ hay to, nhiều hay ít. Và cái cách mà Á Thánh Anrê Phú Yên chọn lựa để phục vụ anh chị em chính là “NIỀM VUI”. Và như thế, chúng ta lại khám ra ra: Tình yêu đáp trả của Anrê dành cho Chúa Giêsu và anh chị em mình là: một tình yêu vui tươi.

5. Một TÌNH YÊU VUI TƯƠI trong mọi hoàn cảnh:

          Vui tươi được làm con Chúa, vui tươi phục vụ anh em, cộng đoàn, vui tươi cử hành phụng vụ và nhất là vui tươi bước ra pháp trường để hiến dâng mạng sống vì tình yêu…

– Nhân chứng I: João de Rezende de Figueiroa:

“Vì thế, Quan đã tuyên án tại Kẻ Chàm, và Thầy Anrê hân hoan chấp nhận. Chính tôi thấy Thầy Anrê và tôi đã nói chuyện với Thầy tại nơi giam giữ. Tôi làm chứng rằng Thầy rất hài lòng vì tin người ta mang tới cho Thầy về việc Thầy phải chết. Khi lý hình tháo gỡ gông ra khỏi cổ, Thầy Anrê tuyên bố: “Tôi chết rất sung sướng, bởi lẽ tôi hiến mạng sống vì Đấng đã ban mạng sống cho tôi; và tất cả mọi người nên biết rằng tôi không chết như một tên trộm, cũng không phải vì tội ác nào cả, nhưng chỉ vì tôi là Kitô hữu”[113].

– GM. COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT, SJ, Theo dấu chân người:

“Tôi nhớ đến anh, một người trẻ vui khi bị bắt, vui khi bị hành hình. Anh không phải là một triết gia lạnh lùng trước sự sống và cái chết. Anh có một niềm hy vọng. Khi theo đạo, anh bước theo Đức Giêsu. Khi nhập Hội Thầy Giảng, anh muốn trở thành cộng sự viên của Chúa. Khi tử đạo, anh hân hoan thấy mình nên giống Chúa trên thánh giá. Đức Kitô đã phục sinh: đó là hy vọng duy nhất của anh. Anh vui vì tìm được niềm hy vọng. Anh vui hơn vì dấn thân với niềm hy vọng. Anh vui nhất khi đạt được niềm hy vọng. Anh trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Những lời cuối cùng từ miệng anh, từ lòng anh, là Chúa Giêsu. Tôi hiểu hết. Đó là trái tim của anh. Nhìn mọi sự nhạt nhòa đi, tôi thấy anh nổi bật, ít là trong lòng tôi, giữa những người trẻ đã bước theo Đức Giêsu đến cùng: Tôma Thiện, Anrê Trông, Giuse Tuân… Và cả những Luy Gonzaga, những Têrêsa Hài Đồng nữa”[114].

          Trên mọi nẻo đường phục vụ hôm nay, cần thiết biết bao những niềm vui, những nụ cười như Á Thánh Anrê Phú Yên để xoa dịu đi bao nỗi nhọc nhằn, để xóa tan đi bao nhiêu sầu oán, để đẩy lùi bao nhiêu ghen ghét giận hờn…

Niềm vui của thánh Giáo hoàng G.P. II, của mẹ thánh Têrêxa Calcutta… hay “nụ cười của nữ tu Cecilia lúc lâm chung”[115]… phải chăng cũng “sắp hàng” trong con đường “đáp trả tình yêu” với niềm vui của Anrê Phú Yên như thế!

          Và chính từ TÌNH YÊU VUI TƯƠI đó, một sức mạnh, một nghị lực mới được trao ban để Anrê Phú Yên có được “một tình yêu loan báo Tin mừng”, một tình yêu nỗ lực truyền giáo.

6. Một TÌNH YÊU LOAN BÁO TIN MỪNG:

          Một tình yêu đích thực dành cho Chúa Giêsu luôn luôn phải dẫn tới hành vi loan báo, truyền giáo. Quả thật “tình yêu Chúa Kitô đã thôi thúc Anrê Phú Yên”, như đã thúc bách những Tông Đồ của thuở ban đầu khai sinh Giáo Hội mà Thánh Phaolô đã từng cảm nhận: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5,14).

          Những chứng từ sau đây đã nói lên chiều kích đó nơi linh đạo Á Thánh Anrê Phú Yên:

– SẮC LỆNH CỦA BỘ PHONG THÁNH, TUYÊN PHONG CHÂN PHÚC hay là BẢN TUYÊN BỐ VỀ CUỘC TỬ ĐẠO CỦA TÔI TỚ CHÚA ANRÊ Thầy giảng giáo dân ( khoảng 1625- 1644):

“Ngày 31.07.1643, cùng với một số đồng bạn, Thầy tận hiến đi phục vụ Giáo hội suốt đời, tức là nhập tổ chức một số giáo dân chuyên cần đi giúp các linh mục trong việc truyền giáo, hay là – trong trường hợp cần thiết, khi không có Linh mục – họ lo bảo toàn tín ngưỡng của giáo dân và cổ võ người bên lương trở về tòng đạo.”[116].

– BẢN TƯỜNG TRÌNH CỦA CHA ĐẮC LỘ:

“Thầy bước đi giữa toán lính, người thì mang giáo, người khác mang đao; và trên đường đi, thầy Anrê phúc lộc lên tiếng dạy dỗ họ và chỉ cho họ con đường về Quê Trời. Tới nơi xử hồng phúc, thầy Anrê tốt lành quì ngay gối xuống; thầy chào từ giã các tín hữu, đồng thời khuyên bảo họ hãy trung thành với Thiên Chúa và tín thác trong niềm tin, “để bảo toàn tình bạn với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng và cho tới muôn đời”; đó cũng là những lời thầy lập đi lập lại nhiều lần”[117].

Lời kết: Khúc nhạc tình yêu bằng hy tế

          Hội thánh là một vườn hoa muôn hương muôn sắc. Trong cuộc hành trình đức tin của Dân Chúa suốt 2000 năm đã ghi dấu bao nhiêu chứng nhân và chứng từ sống động về đức tin, đức cậy, đức mến, về tình yêu dành cho Chúa Kitô, về những giá trị của Tin mừng được khắc họa bằng chính cuộc sống của bao thế hệ thánh thân.

          Chúng ta hãnh diện ở giữa lòng Hội thánh Việt Nam, cũng đã có bao nhiêu người con ưu tú đã góp phần làm cho vườn hoa Giáo hội thêm sắc thêm hương, trong đó, Á Thánh Anrê Phú Yên đã nổi bật lên như một vì sao sáng. Để cảm nhận một cách sâu sắc chân lý nầy, và cũng để một lần nữa thắp nén hương tưởng niệm “Người Chứng Thứ Nhất”, Anrê Phú Yên anh hùng, chúng ta có thể ngâm với nhau bài thơ “Bất Diệt”:

Có những trái tim muôn đời vẫn đập,

Vẫn sáng qua bao thế kỷ mịt mù.

Dù mưa đông hay gió lạnh chiều thu,

Dòng máu thắm nhịp đều theo tiếng thở.

Có những bước chân muôn đời ghi nhớ,

Núi không quên và sông vẫn nhắc hoài.

Bước ngày xưa về đỗ lại hôm nay

Cho quán vắng sáng lên niềm hy vọng

Có những ánh sao muôn đời vẫn sáng

Đêm qua đêm thức mãi hẹn người về.

Sao gọi ai bừng tỉnh giữa cơn mê

Khăn gói bước lên đường theo dấu cũ.

Có những ý thơ đã đi vào tuyệt đối,

Thơ kết bằng muôn giọt máu tin yêu.

Lời thơ vang theo tiếng nhạc dặt dìu,

Đang vẫy gọi hồn ai theo lý tưởng.

Vâng, tất cả đã trở thành thần tượng,

Những con người sống trọn nghĩa Chứng Nhân,

Đem máu tim đền đáp nghĩa thiên ân,

Viết khúc nhạc tình yêu bằng hy tế.

Những người ấy qua muôn ngàn thế hệ,

Vẫn sáng lên như tinh đẩu rạng ngời.

Như đuốc thiêng bừng sáng khắp muôn nơi,

Những người ấy,

CHỨNG NHÂN, muôn đời bất diệt…

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

(Nhuận chính xong 01.3.2025)

SÁCH & TÀI LIỆU THAM KHẢO

(Theo thứ tự ghi chú)

1. NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao, Nxb Tôn giáo 2006:

2. ĐGH PHANXICÔ, Tông sắc “Spes non confundit”.

3. ĐGM MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Thư Đức Giám mục Giáo phận gởi cộng đồng dân Chúa Giáo phận Qui Nhơn, 27.02.2025.

4. NHIỀU TÁC GIẢ, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức 2017.

5. ĐẠI NAM THỰC LỤC, TẬP MỘT, Nxb Giáo dục 2001, Tiền Biên Quyển 1.

6. NGUYỄN ĐINH ĐẦU, Nghiên cứu Địa Bạ Triều Nguyễn-Phú Yên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997.

7. OLGAR DROR & K.W. TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài, Nxb Đà Nẵng 2020.

8. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ, Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb Văn Học 2017.

9. GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch, Nxb Hà Nội 2019.

10. ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), chuyển dịch: Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020.

11. LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ 2016.

12. HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG PHÚC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc 2016.

13. PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội 2017.

14. ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại, Phần VI: Thị Nại trong lịch sử, website https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html

15. TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học 2022.

16. TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021.

18. NGUYỄN ĐÌNH TƯ, Non nước Phú Yên, Nxb Thanh Niên 2004.

19. PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người chứng thứ nhất, Nxb Tinh Việt 1959.

20. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb. An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017.

21. LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, Tủ sách Nước Mặn 2024.

22. CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019.

23. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb Tôn giáo 2008.

24. TRUYỀN GIÁO (AD GENTES).

25. LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ, Nxb Hồng Đức 2023.

26. NGUYỄN THANH QUANG – linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chũ Quốc ngữ, Nxb Khoa học Xã hội 2020.

27. ĐGH G.P II, Bài giảng trong thánh lễ phong Chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên tại quảng trường thánh Phêrô ngày 05.03.2000.

28. LM TRẦN ĐỨC ANH, OP, Thánh Têrêxa Hài đồng và con đường thơ ấu thiêng liêng: các tác phẩm của thanh nữ Têrêxa Hài đồng:

29. TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Truyện Một tâm hồn, Thủ bản B (Quyển II).

30. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM CHỦ BIÊN, Hạnh Các Thánh Tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn Giáo 2018. 31. ĐGH GIOAN-PHAOLÔ II, Bài giảng thánh lễ khai mạc sứ vụ giáo hoàng cử hành trước thềm Đền thờ thánh Phêrô ngày 22.10.1978.


[1] Bài viết này là một “tổng hợp, bổ sung và nhuận chính lại” hai bài viết cũ của chính tác giả (Lm. Giuse Trương Đình Hiền) đã được in trong tác phẩm “Rực sáng một vì sao” (NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao, Nxb Tôn giáo 2006:

– Bài “Anrê Phú Yên, cuộc gặp gỡ giữa hai đường mở cõi”, tr. 112-119.

– Bài “Linh đạo Á Thánh Anrê Phú Yên”, tr. 147-158.

[2] ĐGH PHANXICÔ, Tông sắc “Spes non confundit”, số 1.

[3] ĐGM MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Thư Đức Giám mục Giáo phận gởi cộng đồng dân Chúa Giáo phận Qui Nhơn, 27.02.2025, số 1.

[4] SĐD

[5] SĐD, số 3.

[6] NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao, Nxb Tôn giáo 2006, tr. 07 (Bài giảng của Đức Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn trong lễ mừng chân phước Anrê Phú Yên tại Mằng Lăng ngày 26.7.2000).

[7] NHIỀU TÁC GIẢ, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức 2017, bài viết của PHAN HUY LÊ: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX, tr. 585: “Vương triều Nguyễn đã để lại những bộ chính sử đồ sộ tiêu biểu là bộ Đại Nam Thực lục Đại Nam liệt truyện…

[8] ĐẠI NAM THỰC LỤC, TẬP MỘT, Nxb Giáo dục 2001, Tiền Biên Quyển 1, tr. 36.

[9] NGUYỄN ĐINH ĐẦU, Nghiên cứu Địa Bạ Triều Nguyễn-Phú Yên, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1997, tr. 61.

[10] OLGAR DROR & K.W. TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, những góc nhìn từ bên ngoài, Nxb Đà Nẵng 2020, tr. 42.

[11] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ, Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nxb Văn Học 2017, tr. 466-467.

[12] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch, Nxb Hà Nội 2019, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe dọa thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều này có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.

[13] Alexandre de Rhodes (1593 – 1666): Là công dân Avignon lãnh địa của Giáo hoàng (1348 – 1791). Ngài hoạt động tại Đàng Trong hai lần: Lần đầu từ năm 1624 – 1626; lần hai từ năm 1640 – 1645; tại Đàng ngoài từ năm 1627 – 1630. Ngài có công lớn nhất trong việc hình thành và kiện toàn chữ Quốc ngữ khi đích thân biên soạn và xuất bản hai tác phẩm Quốc ngữ (được xem như) đầu tiên: “Tự điển Việt-Bồ-La” và cuốn giáo lý “Phép giảng tám ngày”. Cả hai cuốn được in tại nhà in đa ngữ của Thánh Bộ Truyền bá Đức tin tại Rôma năm 1651.

[14] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), chuyển dịch: Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020, tr. 161.

[15] Khi chắp bút cho bài viết trên, cha Cosma Hoàng Văn Đạt là một linh mục thuộc Dòng Tên. Ngày 4.8.2008, ĐGH Bênêđictô XVI bổ nhiệm cha làm Giám mục Chính tòa Giáo phận Bắc Ninh. Vì lý do sức khỏe, ngày 17.6.2023, Đức cha Cosma được ĐGH Phanxicô chấp thuận cho từ nhiệm. Hiện ngài đang nghỉ hưu tại một trụ sở của cộng đoàn Dòng Tên trong giáo phận Bắc Ninh.

[16] NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao (Tìm về chân dung Á Thánh Anrê Phú Yên – 1625-1644, Nxb Tôn giáo 2006, tr. 143.

[17] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nguyễn Nghị dịch, Nxb Trẻ 2016, tr. 24.

[18] Cuộc “Nam tiến” của dân tộc và đất nước Việt Nam là một “hành trình dài lâu”, có thể nói đã khởi sự từ thời Tiền Lê với Lê Đại Hành chinh phạt Đồng Dương (Indrapura) năm 982 và hoàn tất khi chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát thu phục miền Đồng bằng Sông Cửu Long năm 1757. Tuy nhiên, trong khảo luận này, vì liên quan đến “Phú Yên”, nên cuộc Nam tiến xin được giới hạn trong khoảng thời gian 1558 khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa và năm 1611, khi vị chúa này sai Văn Phong chinh phạt Chiêm Thành và lập phủ Phú Yên.

[19] HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG PHÚC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc 2016, tr. 19-21

[20] SĐD, tr. 26-28.

[21] SĐD, tr. 45-47.

[22] SĐD, tr. 48-51.

[23] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 27: “Vào thời này, người Chăm là một mối đe dọa thực sự đối với sự tồn tại của triều đại Hậu Trần của Đại Việt…  Tuy nhiên, khi được đặt vào lại trong bối cảnh lịch sử của chúng, đây lại là những biến cố có khả năng tiêu hủy Đại Việt, “xé rách hệ thống chính trị của nước này”, và đe dọa cách trầm trọng chính sự tồn tại của nước Đại Việt”.

[24] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội 2017, tr. 73 (x. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Quyển 8, tr. 453-457).

[25] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 25.

[26] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 45.

[27] SĐD, tr. 50-52.

[28] SĐD, tr. 66-67.

[29] SĐD, tr. 81-83.

[30] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 28: “Dù là triều đại ngắn ngủi nhất trong lịch sử Việt Nam, triều đại Hồ Quý Ly (1400-07) cũng đã đánh dấu một bước quyết định trong con đường Việt Nam tiến về phía nam, tạo một bầu khí chung cho giai đoạn sau này”.

[31] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 91.

[32] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại, Phần VI: Thị Nại trong lịch sử, website https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html

[33] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), sđd, tr. 471-472.

[34] Thạch Bi Sơn hay còn được gọi là “Núi Đá Bia” hay “Núi Ông” là ngọn núi cao nhất trong dãy núi Đại Lãnh tại vùng núi Đèo Cả, ngọn đèo ngăn cách Phú Yên và Khánh Hòa. Núi Đá Bia nằm trên phần đất Đèo Cả phía Phú Yên ngày nay thuộc xã Hòa Xuân Nam, Thị xã Đông Hòa. Trên đỉnh núi có một phiến đá lớn và cao 80 mét. Tục truyền, trong chiến dịch bình Chiêm năm 1471, vua Lê Thánh Tôn đã cho ghi khắc địa vực biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

[35] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 93-96.

[36] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 37-38.

[37] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 110.

[38] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 33-35.

[39] TRẦN TRỌNG KIM, Việt Nam sử lược, Nxb Văn Học 2022, tr. 287-288.

[40] HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG PHÚC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, sđd, tr. 144-149.

[41] OLGAR DROR & K.W.TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII, sđd, tr. 39-40.

[42] TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2021, tr. 13.

[43] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, sđd, tr. 123.

[44] TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, sđd, tr. 37.

[45] PHAN KHOANG, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, sđd, tr. 100.

[46] NGUYỄN ĐÌNH TƯ, Non nước Phú Yên, Nxb Thanh Niên 2004, tr. 70.

[47] SĐD, tr. 133.

[48] PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người chứng thứ nhất, Nxb Tinh Việt 1959, tr. 36-38.

[49] TRẦN THUẬN, Đàng Trong lịch sử và văn hóa, sđd, tr. 35-38.

[50] “Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian” là một tác phẩm lịch sử tổng hợp về Giáo phận Qui Nhơn do BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN QUI NHƠN thực hiện để chuẩn bị mừng Năm Thánh kỷ niệm 400 năm Giáo Phận Qui Nhơn đón nhận Tin Mừng (1618-2018). Đây là ấn phẩm được chính Đức Cha Matthêô, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn chắp bút cùng với sự cọng tác của linh mục Gioan Võ Đình Đệ (về tư liệu lịch sử) và linh mục Anrê Huỳnh Tấn Nha (về kỹ thuật trình bày, in ấn…).

[51] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, Nxb. An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017, tr. 33.

[52] SĐD, tr. 33-34.

[53] SĐD, tr. 34.

[54] LI TANA, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, sđd, tr. 223-224.

[55] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, Tủ sách Nước Mặn 2024, tr. 57-58: “Khi nói đến lịch sử truyền giáo của Đạo Công giáo tại Việt Nam, với nhiều sách vở, tài liệu, nghiên cứu… trong cũng như ngoài Giáo hội, thời điểm năm 1533 gần như mặc nhiên được chọn là cột mốc đầu tiên!  Điều cần lưu ý: đây chỉ là một chi tiết thuộc nguồn “Dã lục” được “chua” thêm của bộ chính sử triều Nguyễn “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, bộ sử được soạn và phát hành vào triều vua Tự Đức (Soạn: 1856; Phát hành: 1884). Đây là thời mà cuộc bách hại Công giáo đang tới hồi đỉnh điểm.  Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, cả hai chi tiết thời điểm 1533 và nhân vật I-nê-xu được “chua thêm” của bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục vẫn là một giả thuyết còn tồn nghi; nhất là các chi tiết đó lại liên quan đến một tài liệu thuộc “truyện ký dã sử” có nội dung và chủ đích bôi nhọ và bài bác Công giáo mang tên “Tây Dương Gia Bí lục” xuất hiện trước đó (Khởi thảo: 1794; in: 1812). Trong khi đó, cho đến nay, chưa tìm được một manh mối nào liên quan đến “hai chi tiết” đó từ kho tàng lịch sử trong cũng như ngoài Giáo hội tại Âu Châu, Ấn Độ, Nhật Bản… những nơi xuất phát của hầu hết các nhà thừa sai đến truyền giáo tại Việt Nam thuở ban đầu.”

[56] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Đất & Tên qua dấu thăng trầm, sđd, tr. 58-59.

[57] CHRISTOFORO BORRI, Relatione della nuova missione, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019, tr. 133-134; ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, Nxb Hồng Đức 2020, tr. 80-81; ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, Nxb Tôn giáo 2008, tr. 18-20; BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 46-49.

[58] PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất, sđd, tr. 46.

[59] TRUYỀN GIÁO (AD GENTES), SỐ 5: Người đã thiết lập Giáo Hội nên như bí tích cứu độ, và sai các Tông Đồ đi khắp thế gian như chính Người đã được Chúa Cha sai đi (x. Ga 20,21): “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20). “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu rỗi, còn ai không tin sẽ bị luận phạt” (Mc 16,15).

[60] SĐD, SỐ 23: Dù tất cả các môn đệ của Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần vào công cuộc gieo vãi đức tin, nhưng trong số các môn đệ, Chúa Kitô luôn kêu gọi những kẻ Người muốn, để họ ở với Người và để Người sai đi giảng dạy muôn dân (x. Mc 3,13t). Vì thế nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng phân chia các đặc sủng tùy theo ý Ngài vì lợi ích chung (x. 1 Cr 12,11), Chúa Kitô khơi gợi ơn gọi truyền giáo trong tâm hồn từng cá nhân, đồng thời làm xuất hiện trong Giáo Hội những tổ chức đặc biệt đảm trách phận vụ truyền bá Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội.

[61] LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ, Nxb Hồng Đức 2023, tr. 59-60.

[62] SĐD, tr. 60-62.

[63] SĐD, tr. 62-66.

[64] SĐD, tr. 66-69.

[65] SĐD, tr. 70.

[66] SĐD, tr. 70-71.

[67] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 46-48.

[68] Để biết rõ về nhân vật “Khám lý Trần Đức Hòa”, xin đọc hai bài viết của hai tác giả Nguyễn Thanh Quang và linh mục Gioan Võ Đình Đệ trong tác phẩm “Một số vấn đề về chữ Quốc ngữ” (NGUYỄN THANH QUANG – linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chũ Quốc ngữ, Nxb Khoa học Xã hội 2020, tr. 175-202):

– Bài viết của Nguyễn Thanh Quang: “Quan Trấn thủ Qui Nhơn Trần Đức Hòa với việc hình thành chữ Quốc ngữ”, tr. 175-189.

– Bài viết của linh mục Gioan Võ Đình Đệ: “Đi tìm thời điểm sinh và tử của “Bà Đỡ” khai sinh chữ Quốc ngữ – Cống Quận Công Trần Đức Hòa”, tr. 190-202.

[69] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 51-54.

[70] CRISTOFORO BORRI, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 147-159.

[71] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 57-58.

[72] LM. ANTOINE BÙI KIM PHONG, Alexandre de Rhodes, S.J. (1593-1660) và công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, sđd, ghi chú số 1, tr. 130-131.

[73] SĐD, Chương Ba, “Cuộc đời, sứ vụ và các tác phẩm của cha Alexandre de Rhodes”, từ trang 128-296.

[74] SĐD, tr. 192-221.

[75] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 161-162.

[76] SĐD, tr. 166-167.

[77] PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người Chứng Thứ Nhất, sđd, tr. 39-40.

[78] SĐD, tr. 56-57.

[79] Về tước hiệu “Tử đạo tiên khởi” (Protomartyr), xin đọc bài viết của linh mục Roland Jacques (Dương Hữu Nhân): (NHIỀU TÁC GIẢ, Chủ biên: Lm. Giuse Trương Đình Hiền, Rực sáng một vì sao (Tìm về chân dung á thánh Anrê Phú Yên 1625-1644), sđd, tr. 94-103: Linh mục Dương Hữu Nhân: Thầy giảng Anrê Phú Yên & Tước hiệu “Tử đạo tiên khởi Việt Nam”.

[80] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 196-200.

[81] Tức là cuốn “Điều trần về thầy giảng Anrê tử đạo tiên khởi Đàng Trong”, bản tiếng Ý , Rôma 1652, bản tiếng Pháp, Paris 1653.

[82] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, (Divers voyages et missions), sđd, tr. 196-200.

[83] NHIỀU TÁC GIẢ, (Chủ biên : Lm. Giuse Trương Đình Hiền), Rực sáng một vì sao (Tìm về chân dung á thánh Anrê Phú Yên 1625-1644), sđd, tr. 142: COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT SJ, Theo dấu chân Người.

[84] SĐD, tr. 19-20: MOLINARI SJ, Thầy giảng Anrê, vị Tử đạo đầu tiên của Việt Nam, LM Giuse Trần Đức Anh OP chuyển ý.

[85] SĐD, tr. 43-44: ROLAND JACQUES OMI, Anrê Phú Yên và Giáo hội Việt Nam, Hà Huyền Tâm chuyển ngữ.

[86] ĐGH G.P II, Bài giảng trong thánh lễ phong Chân phước cho thầy giảng Anrê Phú Yên tại quảng trường thánh Phêrô ngày 05.03.2000.

[87] NHIỀU TÁC GIẢ, (Chủ biên : Lm. Giuse Trương Đình Hiền), Rực sáng một vì sao, sđd, tr. 37: ĐGH G.P II, Bài Huấn dụ trong cuộc tiếp kiến sau đại lễ phong chân phước, 06.03.2000.

[88] SĐD, tr. 42-43: ROLAND JACQUES, Anrê Phú Yên và Giáo hội Việt Nam.

[89] LM TRẦN ĐỨC ANH, OP, Thánh Têrêxa Hài đồng và con đường thơ ấu thiêng liêng: các tác phẩm của thanh nữ Têrêxa Hài đồng: “Ngày 30 tháng 9 năm 1898, tức là đúng một năm sau khi Chị Têrêxa qua đời, Mẹ Agnès Chúa Giêsu và Mẹ Marie Gonzague đã cho ấn hành theo thông lệ một thư luân lưu về nữ tu quá cố và gửi tới tất cả các đan viện kín Camêlô. Chỉ khác một điều là bức thư này dày tới 476 trang. Tác phẩm đó mang tựa đề “Truyện một tâm hồn” và trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cuốn sách này được Mẹ Agnès soạn lại dựa trên 3 thủ bản A, B, C. Mãi tới năm 1956, cha Francois de Sante Marie mới trình bày bản phê bình, gồm các nguyên bản với phần dẫn nhập và chú thích.

– Thủ bản A là tác phẩm được Têrêxa viết ra theo lời yêu cầu của Mẹ Agnès để kể lại những năm đầu tiên trong cuộc đời thánh nữ. “Truyện mùa xuân của một bông hoa trắng nhỏ”, do Têrêxa dùng những giờ phút rảnh rỗi giữa công việc và kinh nguyện để viết lại.

– Thủ bản B được Thánh Nữ Têrêxa kết thúc vào trung tuần tháng 9 năm 1896: Trong một cuộc tĩnh tâm trong cô tịch, Têrêxa nhận được lá thư của chị Marie Thánh Tâm xin Têrêxa chia sẻ những ánh sáng thiêng liêng đã nhận được trong cuộc tĩnh tâm ấy. Ngay ngày hôm ấy, 13-9-1896, Têrêxa trả lời cho chị Marie, thông báo cho chị kinh nguyện dài mà Têrêxa đã viết ngày 8-9-1896 trước đó để kỷ niệm ngày khấn dòng, đồng thời kèm theo một thư dài. Thư này cùng với kinh nguyện vừa nói họp thành điều mà người ta gọi là “Thủ Bản B”. Trong thủ bản này Têrêxa cũng kể lại một giấc mơ và mô tả các mong ước, các ơn gọi mà Têrêxa ước mong được sống.

– Thủ bản C do Têrêxa viết ra trong những tháng trước khi qua đời và lần này chị cũng viết vì đức vâng lời. Sứ mạng huynh đệ mà Têrêxa mô tả chính là một chứng tá sâu xa về đặc sủng Camêlô do Thánh Nữ Têrêxa Avila đã đề xướng khi cải tổ dòng Camêlo.”

[90] TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, Truyện Một tâm hồn, Thủ bản B (Quyển II).

[91] Ga 15,12-13: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”.

[92] 1 Ga 4,7-21: “… Thiên Chúa là tình yêu…”; 1 Cr 13,1-13: “… nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.”

[93] PHẠM ĐÌNH KHIÊM, Người chứng thứ nhất, sđd, tr. 147.154. (Xem thêm: CONGREGATIO DE CAUSIS SANCTORUM, Prot. N. 1022, Positio super Martyrio, vol. II, Rapport de la commission historique et appendices summarium, Romae, 1998, p. 17-18, notes 24,25,26).

[94] NHIỀU TÁC GIẢ (LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, CHỦ BIÊN), Rực sáng một vì sao (Tìm về chân dung Á thánh Anrê Phú Yên), sđd, tr. 126-129.

[95] X. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM CHỦ BIÊN, Hạnh Các Thánh Tử đạo Việt Nam, Nxb Tôn Giáo 2018, tr. 83-84:  Ba vị thánh Tử đạo Việt Nam: Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể, Đinh Văn Đạt, vì chịu cực hình nên đầu tiên đã “đạp qua Thánh giá chối đạo”. Sau đó, ăn năn sám hối và tuyên xưng đức tin để được phúc tử đạo.

[96] BOB MARLEY: “You said you love rain, but you use umbrella to walk under it. You said you love sun, but you seek shade when it is shining. You said you love wind, but when it comes you close your window. That’s why I’m scared when you say you love me”..

[97] NHIỀU TÁC GIẢ (LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, CHỦ BIÊN), Rực sáng một vì sao, sđd, tr. 148 (Xem thêm: Positio super martyrio… (sđd) phần tiếng Pháp: traduit du Portugais et annoté par Roland Jacques, p. 74).

[98] SĐD, tr. 148-149.

[99] SĐD, tr. 149.

[100] SĐD, tr. 149.

[101] SĐD, tr. 149-150.

[102] SĐD, tr. 150.

[103] SĐD.

[104] SĐD, tr. 151

[105] SĐD.

[106] SĐD.

[107] ĐGH GIOAN-PHAOLÔ II, Bài giảng thánh lễ khai mạc sứ vụ giáo hoàng cử hành trước thềm Đền thờ thánh Phêrô ngày 22.10.1978: “Anh chị em đừng sợ hãi. Hãy  mở cửa, còn hơn thế nữa hãy mở toang cửa cho Chúa Kitô! Hãy mở các biên giới các quốc gia,  các  hệ thống kinh tế cũng như chính trị, các lãnh vực rộng lớn của nền văn hoá, văn minh,  và của sự phát triển cho quyền năng cứu rỗi của Ngài! Đừng sợ hãi! Chúa Kitô biết “cái gì trong con người” Chỉ có Ngài biết điều đó! Ngày nay con người thường không biết mình mang cái gì bên trong, trong tận sâu thăm tâm hồn, trong con tim của mình. Vì thế nó thường không chắc chắn về cuộc sống của mình trên trái đất này. Nó bị xâm chiếm bởi nghi ngờ biến thành tuyệt vọng. Vì vậy xin anh chị em cho phép –  tôi xin, tôi nài nỉ anh chị em với lòng khiêm tốn và sự tin tưởng – hãy cho phép Chúa Kitô nói với con người. Chỉ có Ngài có các lời của sự sống, vâng, của sự sống vĩnh cửu.”

[108] NHIỀU TÁC GIẢ (LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, CHỦ BIÊN), Rực sáng một vì sao, sđd, tr. 152-153.

[109] SĐD, tr. 153.

[110] SĐD, tr. 153-154.

[111] SĐD, tr. 154.

[112] SĐD.

[113] SĐD, tr. 155.

[114] SĐD, tr. 154.

[115] Nữ tu Cecilia người Argentina, sau thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư phổi, đã trút hơi thở cuối cùng với nụ cười rạng rỡ trên môi; một “nụ cười lúc lâm chung” đã lay động hàng triệu người trên thế giới…

[116] SĐD, tr. 156.

[117] SĐD, tr. 157.