Views: 4
(CN 20 TN C 2025)
Tin mừng Luca của Chúa Nhật hôm nay vừa nhắc lại lời của Chúa Giêsu về biểu tượng “Lửa”: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên…”.
Trong ngôn ngữ Thánh Kinh và Thần học Kitô giáo, “Lửa” là biểu tượng của Chúa Thánh Thần: “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,3-4). Thế nhưng, Chúa Thánh Thần lại là biểu hiện của “Tình yêu”: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” và “Sự thật”: Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật…” (Ga 14,16-17). Như vậy, có thể nói được rằng: sứ mệnh “mang lửa” của Chúa Giêsu đó chính là “sứ mệnh” mang đến “tình yêu và sự thật” cho thế giới, cho nhân loại!
Sau hai ngàn năm, không biết ước nguyện “mang lửa” này của Chúa Giêsu hiện thực được bao nhiêu phần trăm? Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận, đó là đã có hàng hàng lớp lớp thế hệ Kitô hữu tiếp bước Ngài đi làm chứng nhân cho tình yêu và chân lý mà ngôn ngữ chuyên biệt của Kitô giáo gọi là “làm ngôn sứ”, như cách khẳng định của Thư Do Thái vừa được công bố qua Bài đọc 2: “chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh”.
Như vậy, có thể nói được rằng: sứ điệp Phụng vụ hay Lời Chúa mà Chúa Nhật 20 (TN C) này muốn chuyển tải đến cộng đoàn Kitô hữu chúng ta đó chính là việc thực thi sứ mệnh “Ngôn sứ”, sứ mệnh “làm chứng tình yêu và sự thật” hay “làm chứng về Chúa Giêsu” cho thế giới, như chính Ngài đã ban lệnh: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48); “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
Thật ra, trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, “sứ mệnh ngôn sứ” là cả một câu chuyện dài, một thiên tình sử đã diễn ra nhiều lần nhiều cách, có lúc rạng rỡ huy hoàng, có khi lâm ly bi đát… trong suốt hành trình lịch sử của dân tộc Israel, như được minh họa qua nhân vật Giêrêmia, một ngôn sứ đã bị “thả giếng cho chết vì dám nói ngược”: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. (Bài đọc 1).
Để hiểu thêm về sự cố nầy, có lẽ chúng ta phải ngược dòng thời gian, trở về khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, thời hoạt động ngôn sứ của Giêrêmia; thuở mà vương quốc Giuđa đang rơi vào khủng hoảng để rồi đi tới diệt vong bởi hoàng đế Nabuconoso (626-587). Thật vậy, vào thời đó, Giêrêmia thi hành sứ mệnh ngôn sứ trong một tình trạng đầy giằng co và thử thách, vừa nơi tâm hồn mình vừa qua những áp lực ngoài xã hội: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ… Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày. Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, ầm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20, 7-9).
Quả thật, Lời Chúa qua tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia đã cho chúng ta thấu hiểu phần nào thân phận nghiệt ngã muôn nơi muôn thuở của những người mang sứ mệnh ngôn sứ: Phải nói Lời của Thiên Chúa cho dù Lời đó đi ngược lại tâm thức và xu hướng của con người; phải chấp nhận hậu quả thương đau chứ không chịu thoả hiệp để yên thân.
Thế nhưng đó lại chính là con đường, là chọn lựa của chính vị Đại Ngôn Sứ, mà Giêrêmia mới chỉ là hình bóng tiên trưng. Vâng, Tin mừng Luca chúng ta vừa nghe, đã cho thấy chính Đức Kitô đã thi hành sứ mệnh ngôn sứ “mang lửa Thánh Thần và tình yêu đến cho thế giới” và sẵn sàng “dấn thân vào “Phép rửa của khổ nạn” để cứu độ con người: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Vâng, con đường để Đức Kitô hoàn tất sứ mệnh ngôn sứ đầy nhiêu khê đó phải trả giá bằng một cuộc chiến thương đau: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ…”.
Quả thật, làm chứng cho sự thật và tình yêu, cho những giá trị của Tin mừng, cho Đức Kitô… không bao giờ là chuyện dễ! Đừng nói chi đến chuyện “đạo đức tâm linh”, ngay trong lãnh vực chính trị xã hội, như cô Karoline Leavitt, người nữ Thư ký báo chí Nhà Trắng vẫn thường tuyên bố qua nhiều lần họp báo, Tổng thống đương nhiệm Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, Donald Trump, sở dĩ bị “bầm dập, kết án, bôi nhọ, chửi bới…” vì dám nói sự thật, dám đương đầu với cánh truyền thông thiên tả hay “dòng chính” luôn muốn bưng bít sự thật và dùng sự dối trá để áp đặt, lèo lái dư luận và đám đông…
Trong Giáo hội, suốt hai ngàn năm “hành trình làm chứng” cho Đức Kitô, đã có cả “một đám mây nhân chứng” cho tình yêu và sự thật, mà một trong số đó là thánh linh mục Titus Brandsma, một linh mục tu sĩ người Hà Lan thuộc Dòng Cát Minh, một giáo sư thần học, một nhà viết báo và là một cố vấn tinh thần cho các tờ báo Công giáo trực thuộc Hàng Giám mục Hà Lan từ năm 1930. Vì trung thành với “truyền thông sự thật” của Giáo hội và không chấp nhận biến báo chí thành công cụ tuyên truyền cho chủ nghĩa Quốc xã đang thống trị, vào tháng giêng năm 1942, cha Brandsma bị bắt giam. Sau khi bị tra tấn dã man, ngài bị đưa đến trại giam tập trung Dachau… Dù bị hành hạ khắc nghiệt, Brandsma vẫn không sờn lòng. Ngài an ủi những người cùng cảnh ngộ và khuyên nhủ:“Chúng ta đang ở đây như đang bước đi trong một đường hầm tối tăm. Chúng ta phải cố gắng vượt qua. Cuối đường hầm sẽ là ánh sáng rực rỡ chiếu rọi cho đến muôn đời.”. Sau đó không lâu, ngài đã bị giết bằng một mũi thuốc độc, hoàn thành sứ mệnh “chứng nhân cho một đời ngôn sứ”! Ngài được đức Giáo hoàng Phanxicô phong hiển thánh vào ngày 15.5.2022 và xứng đáng được gọi là “chứng nhân tử đạo vì sứ vụ ngôn sứ”.
Thế giới, Giáo hội, con người… luôn cần những “ngọn lửa chứng nhân” như thế. Nhưng để ngọn lửa chứng nhân không bị dập tắt mà cháy mãi, thì điều cốt yếu chính là lời đề nghị của Thư Do Thái: “Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất”. Vâng, phải “nhìn thẳng vào Đức Kitô”, như câu chuyện minh họa “chàng hiệp sĩ mang ánh lửa từ Mồ Thánh về tận quê nhà” của nhà văn Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương, Selma Lagerloeff: sở dĩ anh ta giữ được ngọn lửa thắp từ Mồ Thánh ở Giêrusalem không bị tắt cho đến khi về thắp trên bàn thờ quê hương bên Ý là nhờ bí quyết: “Tôi đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn sàng bỏ hết tất cả mọi sự, để bảo vệ ngọn nến ấy”.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng cũng trung tín mỗi ngày “đặt tất cả chú tâm và Đức Kitô và sẵn sàng bỏ hết tất cả để bảo vệ Ngài”. Được như thế, ngọn lửa chứng nhân sẽ còn cháy mãi trong thế giới này.
Trương Đình Hiền