Cảm nhận đức tin, Chia sẻ Lời Chúa, Tài liệu Phụng Vụ

“MÌNH VỚI TA” TUY HAI MÀ MỘT

(Chúa Nhật 31 TN B 2021: Mến Chúa – Yêu người)

            Bình thường thì ít thấy; nhưng mỗi khi “hữu sự” thì Người Việt Nam chúng ta cũng thuộc “dân tộc có hạng” trong thể hiện “nghĩa tình huynh đệ”, chia sẻ bác ái; hay gọi nôm na là “văn hóa bí bầu” hay “văn minh lá lành đùm lá rách” ! Trong thời cao điểm đại dịch vừa qua, hay trong biết bao cơn bão lũ thiên tai xé nát thôn làng khắp miền đất nước, nhất là Miền Trung dấu yêu, người ta dễ dàng nhận ra những chứng minh hùng hồn và cụ thể cái “văn hóa ứng xử” đặc biệt trên, một “loại hình văn hóa, văn minh” mà người ta đang lo lắng sẽ dần bị mai một, khan hiếm bởi sự lên ngôi của “chủ nghĩa cá nhân”, của “văn minh ích kỷ”, của “văn hóa vô cảm”

            Hèn chi, đã là người Việt Nam, lớn bé trẻ già, giàu sang trí thức hay mạt rệp cùng đinh, ai mà không thuộc câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; hay câu tục ngữ mang âm hưởng của lời Sách Thánh Lêvi trong tín ngưỡng Do Thái: “Thương người như thể thương thân” = Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Lv 19,18).

            Thật ra, đối với phần đông người Do Thái, ít ra cho tới thời Chúa Giêsu cách đây 2000 năm, câu Sách Thánh Lêvi trên chỉ là “điều răn thứ hai”, “điều luật phụ”, mà có thể họ ít lưu tâm và dấn thân thể hiện. Với họ, điều răn quan trọng nhất phải là lời của sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn người” (Đnl 6,5). Theo truyền thống tín ngưỡng của họ, họ đã chép nguyên đoạn sách Đệ Nhị Luật (6,4-6) làm thành Kinh SHEMA để đeo trên trán, nơi cườm tay, trước cửa nhà… để nhắc nhớ niềm tin kính và việc phượng thờ Chúa mọi phút giây trong đời sống của họ: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng” (Bđ 1). Vâng, đối với tâm thức tín ngưỡng của họ: nội dung cốt lõi của việc thể hiện niềm tin chính là quy chiếu và thực hiện giới răn nầy: Mến Chúa bằng lễ lạc, phụng tự, luật lệ… sao cho nghiêm túc, và bất cần đến những nỗi đắng cay, lầm than của anh em đồng loại xung quanh.

            Khi thoáng thấy cách ứng xử “khá bất thường” của Thầy Giêsu, và cũng có thể, để dằn mặt và “trắc nghiệm bản lãnh đức tin” của anh chàng thợ mộc đến từ Nadarét, như Tin Mừng hôm nay vừa kể, những người Biệt phái muốn Chúa Giêsu bày tỏ thái độ có “mến Chúa trên hết mọi sự” như họ không;  và họ đã dàn dựng một màn phỏng vấn: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?”. Ngoài dự đoán của họ dành cho một kẻ “hạ tiện” dốt nát Lề Luật, Chúa Giêsu, như một người đạo đức bình thường trong truyền thống đức tin của cha ông, đã trả lời đúng phóc bằng chính câu Lời Chúa của sách Đệ Nhị Luật: Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.

            Và câu chuyện đã mang họ đi xa hơn điều họ mong đợi ! Ngài đã “móc” lại một điều luật được ghi trong một sách Thánh Kinh khác, sách Lêvi, mà có lẽ, những ông biệt phái, những thầy ký lục ít khi đọc đến hoặc xem thường, như chính cách sống của họ đã “bỏ rơi hay xem thường con người”: “Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.(Lv 19,18). Và có lẽ câu phán quyết “xanh rờn” tiếp liền sau đó đã làm họ ngỡ ngàng và chưng hửng: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Vâng “Hai” chứ không chỉ có “một”; hay nói cách khác, hai khoản luật trên quy về cùng một đích điểm duy nhất, một giới răn duy nhất: YÊU MẾN.

            Như vậy đã quá rõ ràng, với lập trường sống đạo và quan niệm đức tin của Chúa Giêsu, trong giới răn “mến Chúa trên hết mọi sự” phải bao hàm “yêu thương anh em như chính mình”; và bằng chính cuộc sống và cả cái chết của đời mình, Tin Mừng đã thuyết minh cụ thể lập trường và quan niệm đó của Ngài:

– Chen chân giữa đám dân đen để cùng họ lội xuống dòng sông Giođan cho ông Gioan làm phép rửa, chọn kẻ thu thuế làm môn sinh và ăn uống với họ…, một điều xem ra quá xa vời và lố lăng đối với những người “Biệt Phái”, những kẻ vẫn tự hào là những người “mến Chúa trên hết mọi sự”.

– Đụng chạm, đón tiếp những người cùi hủi đáng thương, để người phụ nữ tội lỗi hôn chân, xức dầu; chữa các bệnh nhân trong ngày Sabat, ăn uống mà chẳng cần rửa tay… những việc bác ái yêu thương mà những người vỗ ngực tự xưng mình là “công chính” sẽ kết án là gương mù, gương xấu.

– Tỏ thái độ cảm thông và kính trọng người phụ nữ ngoại tình bị bắt tại trận để cuối cùng trao ban một phán quyết đầy nhân ái yêu thương: “Phần Ta, Ta cũng không kết án chị đâu”; hay nói với người bất toại bằng lời mang tính thẩm quyền của Thiên Chúa “Tội con đã được tha”… những hành động và lời nói mà những người vẫn tự hào về niềm tin “trung thành với Thập Điều Sinai” sẽ kết án là phá luật cha ông, là ngược dòng truyền thống, là “lộng ngôn phạm thượng”…

– Sẵn sàng quỳ xuống rửa chân cho các môn sinh để dạy họ bài học cụ thể yêu thương phục vụ, một hành vi xem ra không thích hợp chút nào đối với tác phong ăn trên ngồi trước của các vị tư tế đương thời, những người luôn miệng giảng rao về luật “mến Chúa trên hết mọi sự”

– Và sau cùng, Ngài đã sẵn sàng chịu chết giữa hai tên trộm cướp để hoàn thành lời chứng cuối cùng: chết vì yêu thương anh em chính là của lễ đẹp nhất để tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa; và chính đây lại là kết quả của một bản án mà những người Do Thái có chức quyền và sùng đạo đã nhân danh luật “mến Chúa” mà kết án Ngài: “Nó đã nói lộng ngôn !”

            Và xem ra sứ điệp về giới răn “Mến Chúa Yêu người” mà Lời Chúa hôm nay khơi gợi lại là câu chuyện miên viễn của loài người chúng ta; câu chuyện xoay quanh mối tương quan giữa con người với Thượng Đế và con người với nhau. Và lịch sử nhân loại luôn minh chứng rằng: hai mối tương quan nầy luôn đan quyện, khăng khít với nhau và tác dụng hổ tương gần như tuyệt đối: phủ nhận Thiên Chúa thì cũng đánh mất con người; cuồng tín với Thượng Đế hay đặt con người lên bệ thờ đều dẫn đến đại họa. Chúng ta biết đó, sau chủ trương “giết chết Thượng Đế của Nietzch” là những cuộc đại chiến kinh hoàng giết chết hàng bao nhiêu triệu người; cũng vậy, sau chủ trương “vô thần” để con người không còn nô lệ cho “thuốc phiện tôn giáo” của Marx-Engel-Lenin-Mao Trạch Đông-Stalin-Polpốt…, con người trở nên đao phủ để chém giết nhau không thương tiếc ! Cũng vậy, đức tin cuồng tín với Đấng Alah đã khiến những chiến binh IS Hồi Giáo cực đoan trở thành “máu lạnh” sẵn sàng “đánh bom tự sát” mặc kệ những người dân vô tội phải chết chóc đau thương. Trong khi đó, với trào lưu “nhân bản cực đoan” (Humanisme) đang dẫn dắt nhân loại tới con đường tự do phóng túng, phá bỏ những giềng mối luân lý nền tảng mà Thiên Chúa đã thiết lập để tự tung tự tác thỏa mãn những dục vọng đớn hèn…

            Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn trình bày cho chúng ta một Tin Mừng trọn hảo để thể hiện niềm tin qua chân dung và lời dạy của chính Đức Kitô, “một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời”(Bđ 2); nhưng cũng là một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2,17-18). Vì là “Người Con vẹn toàn của Thiên Chúa” nên Đức Kitô đã trở thành “Người Anh Cả của muôn vạn người em” !

            Là môn sinh của Đức Kitô, những con người như linh mục Maximilien Kolbe, như Mẹ Têrêsa Calcutta hay bao nhiêu vị Đại thánh khác trong lịch sử hai ngàn năm của Giáo Hội…, để có được sức mạnh và lòng can đảm yêu thương con người đến cùng, đã phải nhờ đến sự đắm chìm cầu nguyện kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa.

            Vâng, bao lâu còn ngưỡng vọng lên trời, bấy lâu còn trung thành với trái đất ! Đó lài hai điều bất khả phả phân ly: MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI; hay nói một cách dí dỏm: “mình với ta” tuy hai mà một; một TÌNH YÊU, một ĐỨC MẾN. Amen.

Trương Đình Hiền