Cảm nhận đức tin, Chia sẻ Lời Chúa, Tài liệu Phụng Vụ

TIẾNG HÔ CHUYÊN CHỞ “NIỀM VUI ĐÍCH THỰC”

(CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG NĂM B 2020)

Vào thế kỷ trước, trong những năm đầu của thập niên 70 (Khoảng năm 1971-1972), khi cuộc chiến tranh “Quốc-Cọng” đã leo thang tàn khốc, thì cũng là thời điểm gia tăng con số những người góa phụ, những người vợ không còn được gặp lại chồng, những chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường đẫm máu; hoặc nếu có trở về, thì “trở về trong chiếc áo quan hoang lạnh”, như cảm nhận đau điếng một thời trong bài thơ “Kỷ vật cho em” của thi sĩ Linh Phương được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:

Anh trở về chiều hoang trốn nắng

Poncho buồn liệm kín hồn anh

Anh trở về bờ tóc em xanh

Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!

            Và cũng bối cảnh xót xa cùng cực đó, những người góa phụ đi “đón gặp chồng”, chỉ còn một tâm trạng tan nát cõi lòng, buồn lên lai láng, như tâm sự của thi sĩ Lê Thị Ý gởi gắm nơi bài thơ “NGÀY MAI ĐI NHẬN XÁC CHỒNG”:

“Ngày mai đi nhận xác chồng

Say đi để thấy mình không là mình

Say đi cho rõ người tình

Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ

Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ

Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son…”

            Chờ ai để gặp mà chỉ gặp một “người đã ra đi không bao giờ trở lại”; đón đợi “người về” mà chỉ là một “người về trong chiếc áo quan” thì còn gì để mà vui, để mà hy vọng, để mà tin yêu vui sống ! Vâng tất cả đã “nhạt mờ dấu son” và chỉ còn lại chiếc “khăn sô trên đầu vội vã” !

            Có lẽ đó cũng là tâm trạng chung của dân tộc Israel khi rơi vào hoàn cảnh mất nước, lưu đày; tâm trạng của những “người tình của giao ước” bỗng dưng bị “Phu quân Thiên Chúa” quay lưng chối từ, Thiên Chúa mãi đi xa để không bao giờ trở lại ! và nếu đi xa hơn nữa, trở lại “những trang đầu của sách Sáng Thế ký”, khi cửa địa đàng đóng lại, Adam-Eva buồn tủi dắt díu nhau, một mình lang thang trên con đường “gai chông sỏi đá” để không bao giờ còn gặp Thiên Chúa “chiều chiều hạ cố đến đồng hành, tâm sự, sẻ chia…”.

            Vâng, một “Israel buồn là một Israel bị Thiên Chúa quay lưng chối từ” và “một nhân loại buồn” là một “nhân lọai vắng bóng Thiên Chúa”.

            Sứ điệp (Lời Chúa) của Chúa Nhật 3 Mùa Vọng trong Phụng vụ Công Giáo mang đến một ý nghĩa hoàn toàn đối lập với tâm trạng trên, thái độ trên: NIỀM VUI; VUI VÌ “CHÚA ĐANG TRỞ VỀ”; VUI VÌ CHÚA ĐÃ XÓT THƯƠNG VÀ THA THỨ.

            Trước hết, đó là niềm vui mà ngôn sứ Isaia muốn dành riêng cho dân tộc Israel, để hết thảy cùng “ngẩng đầu lên”, chuẩn bị một cuộc “xuất hành mới”, bước qua những “hoang tàn đổ nát, những thất vọng buồn tênh…, để bắt đầu lại trong một cuộc hành trình mới của những người được yêu, được xót thương, được tha thứ và chữa lành bởi “Đấng Được Xức dầu đang đến”: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày…”. Nhà ngôn sứ đặc biệt nầy không muốn dân tộc ông đắm chìm trong “nỗi buồn muôn thuở”, trong tư thế của những “thiếu phụ chít khăn tang chờ chồng là những thây ma”, mà phải là những “cô dâu hạnh phúc” đón gặp Đấng“tình quân” đang trở về trong uy nghi rạng rỡ: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc…”.

            Và tất cả những gì ngôn sứ Isaia loan báo, gọi mời về một “niềm vui đang đến cùng với Đấng được xức dầu”, thì gần như đã được đáp ứng hoàn toàn trong thái độ, trong tâm hồn của người thôn nữ Maria mà bài ca trước cửa nhà cô Êlizabeth đã nói lên tất cả: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tớ nữ Người; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen tôi có phước…” (Đáp vịnh ca).

            Quả thật, Mẹ Maria đã sống trọn vẹn “những nỗi khát khao mong đợi” da diết của dân tộc mình; và đã cảm nhận trọn vẹn nỗi vui ngút ngàn cái ngày “được Chúa viếng thăm”, được “Người nhìn đến” ngay trong chính bản thân mình, cuộc đời mình khi thiên sứ Gabriel truyền tin “Ngôi Lời nhập thể”. Vâng, đây chính “điểm tựa”, là “trọng tâm” của niềm vui nơi Mẹ, cũng là của niềm vui toàn thể nhân loại: Thiên Chúa trở về, Thiên Chúa hiện diện, Thiên Chúa có mặt trong Đấng Kitô mà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã không ngần ngại xác nhận: “Tôi không phải là Đấng Kitô…. giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”.

            Sai lầm của nhiều người trong nhân loại, trong đó có chúng ta, những người Kitô hữu, là đã chọn sai “niềm vui đích thực”. Sau “niềm vui vỡ òa của một trận cầu chiến thắng tại Việt Nam” là những con đường đầy rác rưởi tanh hôi; sau “niềm vui đến chảy nước mắt được chiêm ngưỡng một thần tượng âm nhạc Hàn quốc” là một sự rỗng tuếch của kiến thức và trưởng thành nhân cách”; sau niềm vui tưng bừng ồn ào của những cuộc “say men” vì “chiến tích địa ốc ở Đồng Tâm”, “thương vụ thành công ở Formosa Hà Tĩnh”, “hạnh thông chức quyền ở các cơ quan”… là những tiếng than ai oán của những gia đình bị bóc lột, những nạn nhân của bất công, những phận đời bị dập vùi tăm tối….

            Chính vì thế, sứ điệp “NIỀM VUI” của Mùa Vọng hôm nay, hay của cả một đời Kitô hữu, đó chính là “Niềm vui được trả giá” bằng một sự “dọn đường” nơi tiếng “hô trong hoang địa” của nhà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả từ hai ngàn năm trước: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Đó chính là sự hoán cải nội tâm, là một “bắt đầu mới” đắp xây con đường của thiện lương, công chính, yêu thương. Đó là niềm vui của cô Maria khi tuôn đổ những giọt nước mắt trên chân Chúa để trở về làm lại cuộc đời. Đó là niềm vui của các Thánh Tông Đồ từ tòa án công nghị của quan chức Do Thái bước ra: “Các ông vui mừng vì được chịu đau khổ để làm chứng cho Đức Kitô”. Đó là cái vui của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta, khi được cận kề săn sóc những kẻ yếu đau liệt lào. Đó là niềm vui của Thánh Maximilien Kolbe khi được chết thay cho một người tù sắp bị xử tử, là niềm vui của Á Thánh Anrê Phú Yên trên đường đi đến pháp trường để “lấy tình yêu đáp trả tình yêu”…Suốt 2000 năm nay, trên mọi miền thế giới, đã có bao nhiêu con người đã hưởng ứng, đã sống niềm vui mà hôm nay chúng ta được gọi mời tiếp nối.

Ngày xưa, Gioan Tẩy Giả đã khước từ hết mọi danh hiệu: không là Kitô, không là Êlia, không là ngôn sứ; và chỉ nhận mỗi một danh xưng “tiếng người hô trong hoang địa”. Phải chăng, sứ điệp Lời Chúa Chúa Nhật 3 Mùa Vọng muốn nói với hết mọi Kitô hữu chúng ta rằng: cần gì phải là giáo hoàng, phải là giám mục, linh mục, phải là ông kia bà nọ, phải có địa vị chức quyền mới có thể loan báo tin mừng, mới có thể làm người “dọn đường cho Chúa” để nhân loại có được niềm vui.

Nói cách khác, trong “hoang địa cuộc đời hôm nay” đang rất cần “những tiếng hô của niềm tin và đức ái, của hy vọng và công chính, của tha thứ và khoan dung, của công bằng và hòa bình, của sẻ chia và phục vụ…” để niềm vui chan hòa, để chân lý ngự trị, để thế giới thắm tình huynh đệ khi nhận ra nhau là anh em của một Cha trên trời. Để có được “niềm vui thường xuyên” như thế”, Thánh Phaolô đã từng đề nghị với giáo đoàn Thêxalônica: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.

Và như thế, mỗi người chúng ta hôm nay, ngay trước thềm của đại lễ Giáng Sinh, hãy là một “tiếng hô” như thế, tiếng hô chuyên chở một niềm vui đích thực “Chúa đã đến gần”. Amen.

 

Trương Đình Hiền