Lễ “ĐỨC MẸ SẦU BI” hay “BẢY SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC MẸ” (15.9)
Từ năm 1912, dưới triều Giáo Hoàng Pio X, trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh Công Giáo có 2 ngày lễ kính tước hiệu “MẸ SẦU BI” (MATER DOLOROSA) hay “BẢY SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC MẸ” (SEPTEM DOLORUM). Một ngày được cử hành vào Thứ Sáu trước lễ Lá (Tuần Thánh) và một ngày vào 15.9 (Sau lễ Suy Tôn Thánh Giá). Cho đến sau Cuộc canh tân Phụng vụ của Công Đồng Vatican II (năm 1969), Giáo Hội chỉ còn giữ lại một ngày (15.9).
Được cử hành liền sau ngày Suy Tôn Thánh Giá, dưới ánh sáng của Lời Chúa, Hội Thánh muốn liên kết những đau khổ của Mẹ (7 sự thương khó : 3 sự trong mầu nhiệm ẩn dật và 4 sự trong mầu nhiệm khổ nạn) với cuộc Khổ nạn của chính Con Mẹ là Đức Giêsu Kitô….
Trong Ca nhập lễ của lễ Đức Mẹ Sầu bi Giáo Hội mượn lời của ông Simêon để nhấn mạnh cũng như gồm tóm những đau khổ mà Đức Mẹ phải trải qua để góp phần vào công trình cứu độ của Chúa Con : “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”.
Chúng ta biết, lời tiên báo “đầy oan nghiệt” nầy về cuộc đời của Mẹ đã xảy ra trong một biến cố có thể nói được là một “cột mốc” quan trọng trong việc thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa : biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh. Vâng, chính trong sự kiện đặc biệt nầy, niềm hy vọng về “ánh sáng cứu độ” mà Thiên Chúa đã thắp lên trong lịch sử của Dân Chúa suốt bao ngàn năm, nay đã bắt đầu hiện thực : “Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân : Đó là ánh sáng soi đường ch dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2,30-32).
Như vậy, chúng ta có thể nói được rằng, đi liền với “lưỡi gươm đam thâu”, đã bừng lên ánh sáng. Thập giá và ánh sáng luôn đi kèm, như câu tục ngữ truyền thống của Giáo Hội : PER CRUCEM AD LUCEM (NHỜ THẬP GIÁ ĐẾN CÙNG ÁNH SÁNG).
Cho nên, ý nghĩa thâm sâu của mầu nhiệm “Sầu Bi” của Đức Mẹ không là một dừng lại ở một thứ tình cảm sướt mướt, ẻo lả, nhưng luôn hướng đến sự kiên cường, mạnh mẽ của chiến thắng vinh quang.
Phải chăng trong ý nghĩa đó mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chọn đọc trích đoạn sách Giuđitha để ca tụng một “người phụ nữ chân yếu tay mềm, bà Giuđitha, đã chém đầu đại tướng Hôlôphê : “Hỡi con, con đáng được Thiên Chúa Tối cao chúc phúc hơn mọi phụ nữ trên trần gian…”… “Bà là mối hiển dương cho Giêrusalem, là là niềm tự hào lớn lao của Ít-ra-en…” (Bđ 1). Tất cả những lời trên hoàn toàn có thể áp dụng cho Đức Trinh Nữ Maria, Đấng mà ngày Truyền Tin, thiên sứ Gabrien đã xưng tụng là “Đầy ơn phúc” và người chị họ Isave cũng đã xưng tụng “Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ” !
Có lẽ cũng chính vì cảm nhận được ý nghĩa thâm sâu nầy của mầu nhiệm “Sầu Bi” mà nhà điêu khắc vĩ đại của thời phục hưng – Michelangelo (1475-1564) đã thực hiện một kiệt tác là pho tượng mang tên PIETA (ĐỨC MẸ SẦU BI) được long trọng đặt tại Đại Thánh Đường Phêrô tại Rôma. Thật vậy, toàn thể thần thái của Đức Mẹ và Chúa Giêsu qua bức tượng của chủ đề “Phần 6” trong “Bảy sự thương khó” : ĐỨC MẸ ĐÓN NHẬN XÁC CON, đều toát lên một sự thanh thản, dịu dàng, trong sáng ẩn chứa niềm hy vọng phục sinh.
Dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta lần lượt theo chân Đức Mẹ qua “Bảy sự thương khó” : 3 sự của mầu nhiệm Nhập Thể (Giáng Sinh-Ẩn dật) : Lời tiên báo của Simêon, trốn sang Ai Cập và Lạc mất Chúa trong đền thờ; 4 sự của mầu nhiệm Tử nạn : Theo chân Con trên đường khổ giá, đứng dưới chân thập giá, đón nhận xác Con và An táng Con trong mộ đá.
Cho dù Tin mừng hôm nay chỉ nhắc tới “sự thứ 5” : Dưới chân thánh giá, thì chúng ta cũng có thể qua đó để thấy Đức Mẹ thuộc trọn về Con mình, nhất là, thuộc trọn về Con trong mầu nhiệm Cứu độ, trong việc đón nhận, tin tưởng và thực thi Thánh ý Chúa từ Nhập Thể tới Tử nạn-Phục sinh : “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35).
Hơn nữa, khi trao Mẹ cho Thánh Gioan và trao Gioan cho Mẹ, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta và ngàn muôn thế hệ Dân Chúa, Đức Mẹ mãi mãi giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu trên cuộc lữ hành của Dân Chúa tiến về quê hương vĩnh cửu, một cuộc lữ hành mà “thanh gươm của bách hại”, tử đạo, oán ghét, loại trừ…chưa bao giờ vắng bóng !
Vì thế, “lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ” cùng với tiếng “Xin vâng” mãi mãi sẽ là hành trang cho tất cả những ai dấn thân vào sứ vụ tông đồ. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên, đằng sau thanh gươm đó luôn thấp thoáng vẽ đẹp rạng ngời lung linh của ánh lửa, lửa của Thánh Thần, lửa của “ánh sáng phục sinh”, lửa của tình yêu cứu độ chiến thắng trên bóng tối của nền văn minh sự chết, như cách diễn tả trong đoạn cuối của bài thơ “THANH GƯƠM VÀ ÁNH LỬA” :
Vâng, cuộc đời của chúng ta,
Của những ai đã một lần
Gặp gỡ Đức Kitô trên vạn nẻo đường xuôi ngược,
Nhất là của những con người,
đã quyết chọn sống tu trì (tông đồ) và dấn thân tiến bước,
Làm chứng tình yêu và thắp sáng u minh.
Thì mãi mãi mang theo hành trang bên mình,
thanh gươm báu chữ tình
để chịu đâm thâu và kiên trung chiến đấu,
với ngọn lửa Thánh Linh nóng bừng hồn hậu,
để rạng ngời soi dấu bước lên đường.
Vâng, thanh gươm và ánh lửa yêu thương,
Cho chị, cho anh và cho chúng ta hết thảy !
Simêon, Anna, Giuse, Maria…không trừ ai cả,
những con người,
đã một lần “thấy ánh quang cứu độ” bừng lên !
Trương Đình Hiền